Thuốc gây tê tại chỗ thường được sử dụng cho những thủ thuật nhỏ có thể hoàn thành trong thời gian ngắn, bệnh nhân chóng khỏe và được cho phép trở về nhà trong ngày. Khi sử dụng thuốc, các dẫn truyền xung động thần kinh về trung ương từ ngoại vi sẽ bị ức chế có hồi phục, khiến một vùng bị mất cảm giác tạm thời. Thuốc gây tê tại chỗ là loại thuốc có khả năng làm tê và làm mất cảm giác của một vùng nhỏ trên cơ thểThuốc gây tê tại chỗ là một nhóm các loại thuốc có khả năng làm tê và làm mất cảm giác của một vùng nhỏ trên cơ thể. Thuốc có nhiều dạng điều chế. Tuy nhiên thuốc tiêm được sử dụng phổ biến nhất. Ngay sau khi tiêm, các dẫn truyền xung động thần kinh về trung ương từ ngoại vi sẽ bị ức chế có hồi phục, khiến một vùng bị mất cảm giác tạm thời. Những trường hợp tiểu phẫu có thể hoàn thành trong thời gian ngắn đều được áp dụng gây tê tại chỗ. Điều này giúp ức chế cảm giác đau, bệnh nhân hoàn toàn tỉnh khi làm phẫu thuật. Thông thường thuốc gây tê tại chỗ sẽ được sử dụng cho những bệnh nhân có các vùng phẫu thuật nhỏ. Điển hình như tiểu phẫu răng, vết thương ngoài da, vết thương cạn, nhỏ, vết thương ở ngón tay, ngón chân, da đầu… Không giống như thuốc gây mê toàn thân, thuốc gây tê tại chỗ không làm người bệnh bất tỉnh. Điều này có nghĩa chúng có độ an toàn cao hơn, phục hồi nhanh hơn và thường không yêu cầu bất kỳ chỉ định đặc biệt nào trước khi thực hiện. Thuốc gây tê tại chỗ được phân thành ba nhóm, bao gồm: Những Amides là dẫn xuất của Anilin. Nhóm này gồm các thuốc:
Thuốc gây tê tại chỗ nhóm Esters là dẫn xuất của acid para- aminobenzoic. Nhóm này gồm các thuốc:
Ngoài nhóm Amides và Esters, thuốc gây tê tại chỗ còn có Pyclonine và Pramoxin. Hai loại này không cùng phân nhóm Amides và Esters. Pyclonine và Pramoxin thường được chỉ định cho những người bệnh có tiền sử dị ứng với amides hoặc este và không sử dụng được do một số tình trạng sức khỏe. Thuốc gây tê tại chỗ được phân thành ba nhóm gồm các Amides, các Esters và nhóm khác (Pyclonine và Pramoxin)Thuốc gây tê tại chỗ tác động lên các sợi thần kinh trung ương và thần kinh thực vật để ức chế cảm giác tại một vùng. Tùy thuộc vào loại thuốc và nồng độ thuốc được sử dụng, thuốc lần lượt tác động vào các sợi thần kinh trung ương bé và to. Thứ tự mất cảm giác gồm:
Sau khi hết thuốc, thứ tự phục hồi cảm giác sẽ theo hướng ngược lại. Một số công dụng chính của thuốc gây tê tại chỗ:
Thuốc gây tê tại chỗ ức chế các dây thần kinh dẫn truyền tín hiệu đến não (thuộc một bộ phận của cơ thể). Điều này giúp người bệnh không cảm thấy đau sau khi được gây tê. Mặc dù vậy người bệnh có thể cảm thấy một chút áp lực khi thực hiện thủ thuật hoặc cử động. Thông thường chỉ mất vài phút để thuốc tê làm mất cảm giác ở vùng được tiêm. Thuốc tường hết tác dụng khoảng một vài giờ sau đó, cảm giác sẽ được khôi phục hoàn toàn. Thông thường thuốc gây tê tại chỗ (dạng thuốc tiêm) sẽ được chỉ định cho những trường hợp cần thực hiện các thủ thuật nhỏ, có thể hoàn thành trong thời gian ngắn. Thuốc sẽ ức chế cảm giác đau và giữ cảm giác thư giãn cho người bệnh trong khi tiến hành thủ thuật hoặc phẫu thuật. Thuốc gây tê thường được sử dụng khi thực hiện những thủ thuật nhỏ dưới đây:
Đối với thuốc xịt hoặc gel không kê đơn chứa chất gây tê tại chỗ, thuốc có thể được dùng cho những tình trạng hơi đau. Cụ thể như loét miệng và viêm họng. Ở những trường hợp có các tình trạng nghiêm trọng hơn như đau khớp kéo dài do thoái hóa khớp, viêm khớp… thuốc steroid và thuốc gây tê tại chỗ sẽ được sử dụng đồng thời. Thuốc gây tê tại chỗ được chỉ định cho người cần thực hiện các thủ thuật nhỏ, có thể hoàn thành trong thời gian ngắnKhông dùng thuốc gây tê tại chỗ cho những người bị dị ứng hoặc quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Thuốc gây tê tại chỗ dạng tiêm thường được tiêm trực tiếp tại vùng cần ức chế cơn đau. Ở dạng này, thuốc được sử dụng bởi bác sĩ phẫu thuật, nha sĩ, bác sĩ gây mê, bác sĩ đa khoa hoặc một số bác sĩ có nhiệm vụ gây tê trước khi phẫu thuật/ sinh thiết/ điều trị đau cho bệnh nhân chứng đau khớp kéo dài. Đôi khi thuốc tê được tiêm thành nhiều mũi tiêm nhỏ. Sau khi tiêm một vài phút, khu vực được tiêm sẽ hoàn toàn tê liệt. Nếu vùng được tiêm vẫn còn cảm giác, bác sĩ có thể tiêm thêm thuốc để đảm bảo cảm giác đau được ức chế hoàn toàn. Cách sử dụng những loại thuốc bôi ngoài, gel chứa chất gây tê nhẹ:
Thông thường liều dùng thuốc gây tê tại chỗ sẽ dựa vào loại thuốc được chỉ định và vùng cần gây tê. Có thể giảm liều cho một số đối tượng và tình trạng sức khỏe như nhẹ cân, người lớn tuổi…. Thuốc thường được sử dụng trước phẫu thuật từ vài giây đến vài phút. Procain (Novocain) là loại thuốc gây tê tại chỗ nhóm Ester thường được sử dụng. Thuốc này thường được dùng chung với thuốc co mạch để tăng thời gian gây tê. Thuốc Procain (Novocain) chủ yếu được sử dụng để gây tê bề sâu, thường không được sử dụng để gây tê bề mặt do ít có tác dụng. Liều dùng khuyến cáo:
Đối với nhóm thuốc gây tê tại chỗ có cấu trúc Amid, Lidocain là loại thuốc thường được sử dụng. Thuốc này giúp gây tê tại chỗ niêm mạc họng, mũi, miệng, đường niệu – sinh dục, thực quản và khí quế quản. Liều dùng khuyến cáo: Gây tê từng lớp Tiêm dung dịch lidocain hydroclorid (0,5% – 1%) trực tiếp vào mô.
Gây tê phong bế vùng Tiêm dưới da dung dịch lidocain hydroclorid (0,5% – 1%).
Gây phong bế thần kinh Tiêm dung dịch Lidocain gần hoặc vào đám rối thần kinh ngoại vi/ dây thần kinh. So với những kỹ thuật nêu trên, gây phong bế thần kinh có tác dụng gây tê rộng hơn.
Tác dụng của thuốc gây tê tại chỗ kéo dài trong bao lâu còn phụ thuộc vào loại thuốc được chỉ định và lượng thuốc được dùng. Phần lớn các thuốc gây tê mấy khoảng vài phút để phát huy tác dụng. Một số khác có thời gian phát huy tác dụng lâu hơn nhưng tác dụng của chúng kéo dài hơn. Cụ thể:
Trong nhiều trường hợp, thuốc gây tê được sử dụng kết hợp với Hormone, Epinephrine để kéo dài tác dụng gây tê. Khi được sử dụng cùng với Epinephrine, tác dụng gây tê của thuốc Lidocaine sẽ kéo dài từ 2 – 6 giờ. Thông thường bác sĩ chuyên khoa sẽ sử dụng thuốc gây tê tại chỗ với liều thấp nhất và dùng loại thuốc thích hợp nhất. Nếu thực hiện một quy trình dài hơn tiểu phẫu thông thường, liều dùng thuốc gây tê có thể được lặp lại sau một khoảng thời gian nhất định. Điều này giúp kéo dài thời gian gây tê. Thuốc gây tê tại chỗ khá an toàn. Phần lớn bệnh nhân không gặp rủi ro hay tác dụng phụ sau khi dùng thuốc. Tuy nhiên trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể gặp một số biểu hiện nhẹ và các tác dụng phụ tạm thời. Đối với các sai sót trong kỹ thuật là liều lượng thuốc, bệnh nhân có thể gặp biến chứng. Một số trường hợp có các biểu hiện nhẹ và thoáng qua:
Một số tác dụng phụ tạm thời có thể xảy ra sau khi tiêm:
Hiếm khi người bệnh bị dị ứng với thuốc gây tê tại chỗ hoặc thuốc gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Cụ thể: + Biến chứng toàn thân Biến chứng thần kinh: Xảy ra khi thuốc ngấm vào vòng tuần hoàn với nồng độ cao.
Biến chứng tim mạch
+ Biến chứng cục bộ Do tác dụng đặc hiệu: Các biểu hiện thường liên quan đến kỹ thuật gây tê.
Do dị ứng, phản ứng quá mẫn Trường hợp này thường xảy ra ở người sử dụng thuốc gây tê nhóm Ester của acid para aminobenzoic (những dẫn xuất được thay thế ngay tại vị trí para của nhân thơm), loại đường nối Ester (procain). Hiếm khi xảy ra với thuốc gây tê loại có đường nối amid (lidocain)A. Dùng thuốc gây tê tại chỗ có thể tạo cảm giác khó chịu nhẹ hoặc ngứa ran sau khi tiêmBên cạnh rủi ro và các tác dụng phụ nêu trên, nhiễm độc do sử dụng thuốc gây tê tại chỗ có thể xảy ra. Tuy nhiên tình trạng này thường hiếm gặp, chỉ phát triển khi nồng độ thuốc trong máu quá cao, vượt khỏi hàm lượng cho phép. Nồng độ thuốc tê trong máu tăng cao do nhiều nguyên nhân:
Nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ làm ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể. Tuy nhiên hệ tim mạch và hệ thần kinh trung ương chịu nhiều ảnh hưởng nhất, dễ xảy ra các biểu hiện nghiêm trọng. So với những triệu chứng ở hệ tim mạch, những triệu chứng ở hệ thần kinh trung ương thường gặp và khởi phát nhanh hơn. Phần lớn bệnh nhân có biểu hiện nhiễm độc cấp tính ngay cả khi chỉ tiêm một liều nhỏ. Nguyên nhân là do nồng độ thuốc tăng nhanh trong máu. + Triệu chứng ở hệ thần kinh trung ương Do kích thích hệ thần kinh trung ương
Do ức chế hệ thần kinh trung ương (biểu hiện nặng)
+ Triệu chứng ở hệ tim mạch Trong giai đoạn sớm và nhiễm độc nhẹ
Nhiễm độc nặng
So với nồng độ thuốc gây co giật, nồng độ thuốc gây trụy tim cao gấp 4 – 7 lần. Rối loạn huyết áp và nhịp tim trong giai đoạn sớm và nhiễm độc nhẹ do dùng thuốc gây têĐể giảm nguy cơ nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ, những biện pháp dưới đây sẽ được áp dụng:
Tùy thuộc vào loại thuốc được chỉ định và tốc độ tăng nồng độ thuốc trong máu, người bệnh được giải độc, hồi sức tích cực và có thể tỉnh lại trong thời gian ngắn. Thông thường để đảm bảo xử lý kịp thời và đúng cách, bác sĩ sẽ liên tục hỏi bệnh nhân về các biểu hiện và cảm giác trong quá trình tiêm. Nếu phát sinh những biểu hiện bất thường hoặc có nghi ngờ nhiễm độc, bác sĩ sẽ ngừng tiêm thuốc ngay lập tức. Ngoài ra những cách dưới đây sẽ được thực hiện nếu nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ:
Bệnh nhân bị nhiễm độc thuốc gây tê tại chỗ thường có tiên lượng tốt, đặc biệt là khi kịp thời phát hiện và điều trị đúng cách. Sau điều trị vài ngày, tình trạng nhiễm độc và các triệu chứng sẽ qua đi. So với gây mê hay gây tê toàn thân, thuốc gây tê tại chỗ khá an toàn. Tuy nhiên người bệnh cần lưu ý một số điều dưới đây để dùng thuốc hiệu quả và đảm bảo tính an toàn hơn.
Nhìn chung thuốc gây tê tại chỗ được dùng rộng rãi cho những trường hợp cần tiểu phẫu hoặc thủ thuật điều trị vết thương nhẹ, lấy răng sâu. Thuốc có độ an toàn cao, hiếm khi gây tác dụng phụ, biến chứng hay nhiễm độc. Tuy nhiên để hạn chế tối đa nguy cơ phát sinh vấn đề và đảm bảo an toàn, thuốc cần được dùng đúng liều, đúng cách và tiêm thuốc đúng kỹ thuật. |