Vì sao phim việt dở

Tôi là một người mê xem phim. Trước đây, tôi hay đọc các bài báo của các nghệ sĩ nói về lý do phim Việt Nam yếu kém so với thế giới. Nào là phim Việt ít được đầu tư, nào là chúng ta không có công nghệ, nào là khán giả không ủng hộ,… Nhưng nói thật là tôi chưa bao giờ bị thuyết phục bởi các lập luận này, nó hời hợt và chỉ là bề nổi, chưa phải là lý do sâu xa. 

Một số nghệ sĩ thường đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế, chính sách cho hoạt động điện ảnh, nhưng khi dùng từ “cơ chế, chính sách”, có lẽ họ muốn nói đến tài chính, hay tiền. Không phủ nhận, cấp tiền cũng là một dạng chính sách, nhưng đó là chính sách cản trở hơn là thúc đẩy phát triển. Kinh nghiệm của nhiều ngành khác cho thấy, còn cho tiền là còn chậm lớn. “Cần câu hơn xâu cá” mà.

Là người chuyên nghiên cứu, phản biện chính sách, tôi nhận ra rằng, chính sách chiếm ít nhất 50% thành công hay thất bại của một ngành công nghiệp nào đó, kể cả công nghiệp giải trí. Gần đây, khi nghiên cứu chính sách trong ngành điện ảnh, tôi cho rằng phim Việt Nam thua kém thế giới là do chính sách của chúng ta. 

Vì sao phim việt dở
Kong: Skull Island là một trong số rất ít phim nước ngoài được quay tại VN

Chính sách trong ngành điện ảnh của Việt Nam có mấy điểm sau cản trở sự phát triển của điện ảnh trong nước. 

Thứ nhất, hạn chế sự giao lưu của những người làm điện ảnh trong và ngoài nước. Người ta đặt ra những thứ giấy phép khá kỳ khôi như hãng phim nước ngoài đến Việt Nam mở văn phòng đại diện thì phải xin phép Bộ Văn hoá, ngoài việc phải xin phép Sở Công Thương. Một hãng phim nước ngoài đến Việt Nam hợp tác với nhà sản xuất trong nước để quay phim thì phải nộp kịch bản cho Bộ Văn hoá thẩm định. Cơ quan này có đồng ý thì hãng phim nước ngoài mới được làm phim. 

Chúng ta hãy thử đặt mình vào vị trí của hãng phim nước ngoài, nếu họ muốn làm một bộ phim lấy cảnh quay ở Châu Á, họ sẽ đến Việt Nam hay đến Thái Lan? Đến Việt Nam, họ phải xin phép lên xin phép xuống, thậm chí bị yêu cầu chỉnh sửa kịch bản, hoặc không cho vào. Còn đến Thái Lan thì được ưu tiên cấp visa, tạo điều kiện thủ tục hải quan mang máy móc thiết bị vào, được ưu đãi thuế. 

Người đặt ra những giấy phép đó chắc lo ngại nước ngoài vào quay cảnh gì đó không đẹp của Việt Nam rồi chiếu cho cả thế giới thấy, làm xấu đi hình ảnh đất nước. Nhưng chính cái nỗi sợ mơ hồ đó khiến người ta đặt ra rào cản và rồi thì kể cả những cái đẹp của Việt Nam cũng khó mà được thế giới thấy. 

Cảnh quay mới chỉ là một vấn đề nhỏ. Quan trọng hơn là sự hợp tác giữa những nhà làm phim trong nước và nước ngoài trong cùng một dự án để chúng ta có thể học hỏi kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp quản lý, công nghệ thì cũng sẽ bị cắt đứt. 

Chúng ta có quy định về hạn mức chiếu phim Việt tại các rạp và trên truyền hình. Quy định này học của nhiều nước khác. Nhưng trong điện ảnh, số lượng luôn chỉ là thứ yếu so với chất lượng. Số lượng phim Việt có thể vẫn nhiều, nhưng chất lượng phim của chúng ta rất hiếm khi lôi được người xem đến rạp, chứ chưa muốn nói đến việc vượt ra ngoài biên giới đến với khán giả nước ngoài. 

Thứ hai, kiểm duyệt phim thái quá. Phim là công việc đòi hỏi sáng tạo, và không có gì giết chết sáng tạo nhanh bằng kiểm duyệt. Tôi hiểu rằng, kiểm duyệt nội dung là điều mà bất kỳ nước nào cũng có, kể cả tự do như Mỹ thì cũng cần có kiểm duyệt để dán nhãn phim bảo vệ trẻ em khỏi những cảnh khiêu dâm, bạo lực. Phim ở Thái Lan cũng bị kiểm duyệt để ngăn cản những nội dung xúc phạm nhà vua. Nhưng kiểm duyệt ở Việt Nam bị thái quá ở 2 điểm, độc quyền và tuỳ tiện.

Thứ nhất, Bộ Văn hoá, Cục Điện ảnh thành lập Hội đồng thẩm định phim trước khi cho phép chiếu. Hội đồng này độc quyền trong việc cho phim nào ra rạp, phim nào không. Sự độc quyền mà quyền lực lại định tính này khiến những nhà làm phim sống dở chết dở. 

Nó khác với lĩnh vực xuất bản, nếu bạn viết sách, mang đến nhà xuất bản A mà bạn thấy họ làm việc không tốt thì bạn có thể mang đến nhà xuất bản B. Dù chưa thực sự cạnh tranh hoàn hảo, những có cạnh tranh vẫn khiến các nhà xuất bản phải phục vụ tốt hơn. 

Thứ hai, đáng ra, mục đích của việc kiểm duyệt là loại bỏ những nội dung không phù hợp như khiêu dâm, bạo lực, thù địch… Việc kiểm duyệt không nhằm đánh giá hay dở (dở mà không khiêu dâm, bạo lực vẫn phải được qua), cũng không đánh giá tính chính xác khi phản ánh lịch sử hay xã hội (miễn là không có mục đích thù địch). 

Đỉnh điểm của phạm vi kiểm duyệt rộng là việc cấm chiếu phim Bụi đời chợ Lớn, với lý do bộ phim có nội dung phản ánh các băng nhóm xã hội mà lại không có sự can thiệp của chính quyền, cảnh sát, như vậy là làm xấu đi hình ảnh của Sài Gòn. Còn với những bộ phim khác thì chuyện cắt cảnh, bắt sửa lời thoại với những lý do giời ơi đất hỡi diễn ra thường xuyên. 

Một phần lý do của việc phạm vi kiểm duyệt quá rộng là do thành phần kiểm duyệt gồm cả những nghệ sĩ hoặc những người vốn là nghệ sĩ. Họ nhìn bộ phim với con mắt của nhà phê bình, cố gắng nhìn ra điểm chưa đạt của nó để chỉnh sửa. Họ không giữ tư duy của một người bảo vệ lợi ích công cộng, cố gắng hạn chế can thiệp vào xã hội và chỉ can thiệp khi lợi ích công cộng bị xâm phạm.

Hoạt động kiểm duyệt trên khiến cho việc đầu tư cho phim trở nên rất rủi ro, thời gian kéo dài, và rất mệt mỏi đối với cả nhà đầu tư lẫn nghệ sĩ.

Tất nhiên, còn nhiều yếu tố khác nữa đang hạn chế ngành điện ảnh có những tác phẩm thu hút người xem đến rạp, nhưng tôi chỉ muốn chỉ nêu một số điểm mà tôi nghĩ là hạn chế, kìm hãm nhất ra sao cho các nhà quản lý lưu tâm tháo gỡ.

Nguyễn Minh Đức

Gian nan đưa phim ra nước ngoài

Thuyết phục, nài nỉ, thậm chí là “ăn cắp” một thước phim để có cơ hội được trình chiếu tại nước ngoài, đó là câu chuyện kỳ lạ của đạo diễn Lê Lâm, người nổi tiếng với nhiều tác phẩm như “Long Vân khánh hội”, “Đế chế tàn vụn”, “Công binh - đêm dài Đông Dương”… , một trong những người có công lớn trong việc đưa những thước phim Việt Nam ra thế giới.

Vì sao phim việt dở

Chom và Sa” là bộ phim Việt đầu tiên được quảng bá tại LHP Nantes

“Đó là năm 1980, lúc ấy nhà quay phim Thẩm Võ Hoàng đi công tác tại Pháp, anh ấy đến thăm nhà tôi tại Paris. Anh Hoàng mang 3 cuộn phim nhựa cho Đại sứ quán Việt Nam tại Paris, hỏi ra mới biết là phim “Chom và Sa” của đạo diễn Phạm Kỳ Nam.

Tôi đã nói khó với anh Hoàng để lại cho tôi 3 cuộn phim đó để hôm sau mang đi giới thiệu tại Liên hoan phim Nantes. May làm sao anh ấy đồng ý”. Sau khi có trong tay những cuộn phim “quý như vàng” đó, đạo diễn Lê Lâm đã thuyết phục Ban tổ chức LHP Nantes cho trình chiếu bộ phim “Chom và Sa” và tự động dùng micro dịch trực tiếp từ tiếng Việt ra tiếng Pháp để khán giả theo dõi.

Cần biết rằng, vào giai đoạn những năm 1980, thì việc có một bộ phim Việt Nam được trình chiếu tại các kỳ festival hay liên hoan phim Âu châu ngoài khối Liên Xô là cực kỳ hy hữu. 

Đạo diễn Lê Lâm cũng cho biết, việc quảng bá phim Việt ra nước ngoài vẫn còn bị động. Trải qua nhiều vòng lựa chọn, sàng lọc, khó khăn lắm mới được trình chiếu ở một liên hoan phim nhưng ông cho biết, việc đơn giản nhất là đứng lên để giới thiệu phim trước mỗi buổi chiếu thì không ai làm.

“Tôi sống ở Pháp nhiều năm thấy mỗi khi phim Trung Quốc ra rạp thì người dân đổ xô đi xem không kém gì phim Hollywood vì họ quảng cáo rầm rộ. Còn phim Việt thì gần như ít được biết đến vì không nổi bật, không ai giới thiệu. Rất nhiều lần tôi phải tranh thủ xông ra để nói chuyện về phim Việt”, trong khi rõ ràng đây là công việc của các đạo diễn. 

“Ngại” nói về mình

Sự thiếu chuyên nghiệp trong khâu quảng bá khiến cho phim Việt dù không phải là dở vẫn “chìm nghỉm” giữa một rừng phim nước ngoài. Một biên kịch có tiếng trong nước đã từng chia sẻ, có một thực trạng là phim Việt dù được mua bản quyền xong thì chỉ được phát hành theo dạng DVD và chiếu lẻ tẻ trên các kênh truyền hình nước ngoài.

Một số phim được chiếu để phục vụ bà con kiều bào chứ không thấy phim nào chen chân vào các rạp chiếu thương mại. Nhất là khi phải cạnh tranh với những nền điện ảnh hùng mạnh của châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ và không thể không kể đến đó là Hàn Quốc đang tạo nên một “cơn sốt” trên toàn cầu.

Nhận định về cơ hội để điện ảnh Việt có thể tìm đường ra thế giới, đạo diễn - NSND Đặng Nhật Minh cho rằng, phim Việt trước hết phải xác định là không thể quảng bá ở nước ngoài như cách mà một số đoàn làm phim trong nước đang áp dụng, tức là phim chưa chiếu đã lăng xê những câu chuyện bên lề để thỏa chí tò mò.

Mặt khác, việc khuếch trương về kỹ thuật hay kỹ xảo làm phim cũng không phải là phương án khả thi, bởi rõ ràng công nghệ làm phim của chúng ta vẫn còn khá lâu mới bắt kịp thế giới. NSND Đặng Nhật Minh cho rằng, quan trọng nhất vẫn là nội dung phim.

Ông cho biết, một bộ phim nghệ thuật hay không nghệ thuật khác nhau ở chỗ nó có làm cho người xem xúc động, có chạm đến trái tim của họ hay không. Những phim Việt “tỏa sáng” trên trường quốc tế phần lớn được đánh giá cao ở cái “tôi”, nói được tiếng nói, bản sắc cũng như tâm hồn Việt. 

Để một bộ phim gây được chú ý thì trước tiên nội dung nó phải hay  rồi mới bàn đến những yếu tố khác. Thế nhưng, trong khi vẫn đang mỏi mắt tuyển lựa những bộ phim đáp ứng đủ tiêu chí dự thi, thì chúng ta đang  lãng phí tài nguyên bằng việc bỏ qua rất nhiều công đoạn, từ giới thiệu thông tin bộ phim, chuẩn bị tờ rơi, áp phích quảng cáo đến những chiến dịch truyền thông… để thu hút sự chú ý của giới chuyên môn cũng như khán giả.

Thế nên mới có chuyện, có những năm chúng ta gửi sang thảm đỏ Cannes một đội ngũ nhìn qua toàn những diễn viên sáng giá, nhưng khi phóng viên quốc tế đến phỏng vấn về phim, thì ai cũng nhìn nhau… cười trừ.

Đỗ Hương Giang (An Ninh Thủ Đô)