Tại sao khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam

(PLO)- Từ khi dịch COVID-19 bùng phát, du lịch Việt Nam đã mất hẳn nguồn khách Trung Quốc. Điều này khiến hàng loạt công ty du lịch khốn đốn, doanh thu bằng 0, thâm chí phá sản. Đây là điều chưa từng xảy ra trước đây.

Sự lệ thuộc lớn của ngành du lịch vào lượng khách du lịch Trung Quốc là một trong những nguyên nhân chính khiến hàng loạt đơn vị kinh doanh du lịch rơi vào tình cảnh bi đát như hiện nay.

Trước thực tế trên, nhiều ý kiến cho rằng cần tránh phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc để giảm rủi ro. Ngược lại, một số ý kiến lại cho rằng cần tiếp tục mở rộng cánh cửa đón du khách Trung Quốc. Thậm chí có ý kiến cho rằng dù gặp rủi ro lớn nhưng vẫn phải tập trung phục hồi thị trường khách Trung Quốc...

Ông TỪ QUÝ THÀNH, Giám đốc Công ty Du lịch Liên Bang:

Khách du lịch Trung Quốc không tệ như nhiều người nghĩ

Việc kinh doanh của chúng tôi với đối tác Trung Quốc là sòng phẳng, quyền lợi của hai bên được tôn trọng, đảm bảo. Do đó, khi có sự cố gì xảy ra chúng tôi chấp nhận rủi ro. Thực ra bất cứ thị trường khách quốc gia nào cũng có những mặt tích cực và tiêu cực.

Thị trường khách du lịch Trung Quốc rất lớn, gồm nhiều phân khúc cao cấp, trung cấp, bình dân… Tuy nhiên, có những công ty không hiểu thị trường này, thấy lớn quá nên tiếp tay cho những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.

Mỗi năm người Trung Quốc đi du lịch rất nhiều và chi tiêu cao nên họ được cả thế giới dòm ngó, thu hút. Chẳng hạn, đối với phân khúc tầm trung mà công ty tôi đang khai thác, tour trọn gói khoảng 400 USD/thời gian năm ngày bốn đêm, chưa kể chi tiêu của khách Trung Quốc. Do vậy khách du lịch Trung Quốc không tệ như nhiều suy nghĩ!

Đối với khách Trung Quốc cao cấp cũng có sự khác biệt với khách cao cấp từ các thị trường khác. Ví dụ, họ yêu cầu thuê du thuyền riêng, trực thăng riêng hoặc do tình trạng kẹt xe tại Việt Nam nên họ yêu cầu phải có CSGT mở đường...

Tuy nhiên, những dịch vụ mà ngành du lịch Việt Nam đang có chưa đáp ứng cho phân khúc khách Trung Quốc cao cấp.

Rất nhiều người Trung Quốc muốn đến Việt Nam du lịch

Theo một khảo sát mới đây của C9 Hotelworks về xu hướng du lịch sau dịch của khách nội địa Trung Quốc cho thấy: Có đến 45% người được hỏi có kế hoạch sẽ tiếp tục đi du lịch Việt Nam một khi biên giới hay giao thông giữa hai quốc gia được kết nối trở lại.

Nhiều điểm đến trọng điểm của Việt Nam như Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang,... lượng khách quốc tế luôn chiếm tỉ trọng lớn. Cá biệt như Khánh Hòa lượng khách Trung Quốc chiếm tới hơn 60% tổng lượng khách quốc tế. Ảnh: TẤN LỘC

PGS-TS PHẠM TRUNG LƯƠNG, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu du lịch:

Khi thị trường Trung Quốc "vỡ bong bóng", nhiều công ty Việt phá sản

Nhiều nước trên thế giới coi Trung Quốc là thị trường du lịch trọng điểm. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng xác định Trung Quốc là một trong những thị trường mục tiêu bởi ngoài lượng khách lớn đi du lịch nước ngoài. Thực tế trong khoảng 10 năm trở lại đây, Trung Quốc luôn là thị trường khách du lịch quốc tế đứng đầu ở Việt Nam.

Tuy nhiên, hiệu quả về kinh tế-xã hội và môi trường từ việc đón khách Trung Quốc không được như kỳ vọng đặc biệt ở những địa phương có các tour du lịch "không đồng".

Bên cạnh đó, sự phát triển du lịch phụ thuộc vào thị trường chi phối Trung Quốc ngày một tăng, cùng với đó là nguy cơ khủng hoảng khi thị trường này có vấn đề. Sự suy giảm khách Trung Quốc gần như về 0 ở Việt Nam do đại dịch COVID-19 là một minh chứng.

Cho dù đã được cảnh báo việc phát triển du lịch cần không để rơi vào tình trạng phụ thuộc vào một vài thị trường chi phối. Song do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là bệnh thành tích và không loại trừ "lợi ích nhóm", các tour du lịch "không đồng" vẫn phát triển tràn lan đặc biệt ở Khánh Hòa, Quảng Ninh…

Điều này không chỉ không đem lại nhiều lợi ích về kinh tế mà còn gây áp lực lớn đến hạ tầng xã hội, đến môi trường, gây mất an ninh; gây rủi ro lớn cho phát triển du lịch Việt Nam nói chung và các địa phương trên nói riêng. Bằng chứng là khi thị trường Trung Quốc "vỡ bong bóng" gây hậu quả làm nhiều công ty phá sản, nhiều người lao động mất việc làm.

Do đó, sau đại dịch COVID-19, du lịch Việt Nam cần thay đổi về tư duy. Theo đó, kiên quyết nói "không" với bệnh thành tích để du lịch Việt Nam phát triển hài hòa, không bị lệ thuộc vào thị trường chi phối để giảm thiểu rủi ro về thị trường.

Năm ngoái, lượng khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam là 5,8 triệu lượt, chiếm gần 32% tổng lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Trong ảnh: Du khách Trung Quốc tại Nha Trang. Ảnh: TẤN LỘC

Ông ĐẶNG MẠNH PHƯỚC, Giám đốc điều hành Công ty Nghiên cứu và tư vấn giải pháp du lịch Outbox Consulting:

Không có lý do gì để từ chối khách Trung Quốc

Hầu hết các quốc gia có ngành du lịch phát triển đều xem Trung Quốc như là mục tiêu quan trọng để thu hút và phục vụ. Do đó, không có lý do gì khi Việt Nam với lợi thế vị trí địa lý nằm sát cạnh “giỏ hàng” lớn nhất của ngành du lịch thế giới lại từ chối thậm chí bài trừ thị trường khách này.

Thị trường khách Trung Quốc gồm các phân khúc khác nhau từ trình độ, hành vi, thói quen tới khả năng chi tiêu. Việt Nam hoàn toàn có thể lựa chọn phân khúc thị trường Trung Quốc cụ thể, phù hợp với lợi thể sản phẩm cũng như mục tiêu phát triển của điểm đến để thu hút.

Việc phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc như hiện nay hay phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào khác cũng không tốt. Để giảm phụ thuộc vào một số ít thị trường, giải pháp là sẽ phải đa dạng hóa thị trường.

Ngoài ra, các cơ quan quản lý cần phải có biện pháp quản lý và cân bằng mức độ phát triển giữa các thị trường theo định hướng để bảo đảm môi trường du lịch bền vững. Tránh việc bùng nổ khách của một thị trường (như thị trường Trung Quốc - PV) này sẽ làm ảnh hưởng, xâm lấn đến không gian của các thị trường còn lại.

Sau dịch, ít nhất ở giai đoạn năm 2020 và 2021 Việt Nam cần tiếp tục ưu tiên cho các thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Trung Quốc. Ở thời điểm hiện tại, để bảo đảm khả năng tăng trưởng của thị trường khách quốc tế đến trong ngắn hạn, ngành du lịch Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác là tiếp tục với các thị trường truyền thống như là một giải pháp trước mắt để phục hồi trước khi tiến hành các biện pháp đa dạng hóa thị trường. 

Việt Nam được xem là một trong những điểm đến ưa thích nhất của du khách Trung Quốc, tuy nhiên thị trường khách sạn tại Việt Nam trong nửa đầu năm 2019 lại ghi nhận mức giảm 3% tổng lượt khách Trung Quốc và giảm 10% hệ số RevPAR.

Theo báo cáo mới công bố của Savills, hoạt động kinh doanh khách sạn tại Châu Á Thái Bình Dương trong 6 tháng đầu năm 2019 không có nhiều tín hiệu tích cực khi phần lớn các quốc gia trong khu vực đều báo cáo kết quả hoạt động không khả quan.

Cụ thể, toàn khu vực chứng kiến sự sụt giảm về cả công suất và giá phòng, lần lượt là 1,3% và 5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số RevPAR (Revenue Per Available Room - chỉ số thể hiện mức doanh thu thu được dựa trên số phòng hiện có của khách sạn) trung bình của khu vực giảm gần 6%. 

Tại sao khách du lịch Trung Quốc đến Việt Nam

Lượng khách du lịch Trung Quốc tới Việt Nam đang sụt giảm. Ảnh minh họa: Kinh tế đô thị.

Theo Savills, một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả này có thể kể đến sự sụt giảm của lượng du khách Trung Quốc. Trung Quốc là thị trường nguồn khách lớn nhất của khu vực Châu Á Thái Bình Dương, do vậy, bất kỳ sự thay đổi nào về lượng khách của quốc gia này cũng gây ảnh hưởng lớn đến ngành du lịch toàn cầu.

Lượng khách Trung Quốc đến các điểm du lịch Châu Á hiện đang có dấu hiệu sụy giảm trong những năm gần đây. Theo như số liệu vừa được công bố tại Thái Lan, lượt khách Trung Quốc đến quốc gia này đã giảm 4,73% vào trong nửa đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm ngoái. 

Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi thị trường khách sạn ghi nhận mức giảm 3% tổng lượt khách Trung Quốc và 10% hệ số RevPAR trong nửa đầu năm 2019. 

Mặc dù kết quả kinh doanh không mấy khả quan, ngành du lịch Việt Nam vẫn có nhiều triển vọng khi lượt khách quốc tế đến trong nửa đầu năm 2019 đạt khoảng 8,5 triệu lượt, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. 

Khách quốc tế đến Việt Nam từ các quốc gia Thái Lan, Đài Loan và Hàn Quốc cũng đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng lần lượt là 45%, 27% và 21%. Đây đều là những thị trường du khách chiếm thị phần lớn (sau Trung Quốc). 

Do vậy, mặc dù lượng khách Trung Quốc giảm nhẹ (-3%) như hiện nay, thị trường du lịch Việt Nam vẫn duy trì được mức tăng trưởng lượt khách quốc tế ổn định.

Savills cho hay, lượng khách Trung Quốc sụt giảm có thể giải thích bởi nhiều yếu tố, trong đó bao gồm sự giảm giá của đồng Nhân dân tê, sự suy giảm kinh tế cũng như sự sụt giảm của chỉ số niềm tin người tiêu dùng. 

Tuy nhiên, theo báo cáo của Học viện Du lịch Trung Quốc và Công Ty Lữ Hành Ctrip, hiện nay số lượng người dân Trung Quốc đang sở hữu hộ chiếu rất ít (chiếm chưa tới 10%) và con số này được dự đoán sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020. 

Điều này đồng nghĩa với việc còn rất nhiều người dân Trung Quốc sẽ đi du lịch nước ngoài trong tương lai gần và khả năng cao là họ sẽ ghé thăm các quốc gia lân cận như Việt Nam hay Thái Lan trong những chuyến xuất ngoại đầu tiên. 

Như vậy, sẽ còn rất nhiều tiềm năng cũng như cơ hội cho ngành du lịch Việt Nam nói riêng và toàn cầu nói chung. Mặt khác, theo số liệu thống kê du lịch trong và ngoài nước, mức chi tiêu của khách du lịch Trung Quốc trong các dịp lễ tết tuy không nhiều như trước đây nhưng vẫn duy trì ở mức cao.

Việt Nam được xem là một trong những điểm đến ưa thích nhất của du khách Trung Quốc, do vậy, Savills cho rằng hoàn toàn có cơ sở để hi vọng vào những cơ hội phát triển cho ngành du lịch của Việt Nam.

Với hơn 30.000 phòng dự kiến sẽ được đưa vào hoạt động trong năm 2019 và 2020, Việt Nam hiện đang dẫn đầu khu vực về mặt số phòng, theo sau là Indonesia, Thailand, Malaysia, Philippines và Hàn Quốc. 

Mặt khác, dựa trên phân tích về chỉ số CAGR trong 10 năm của Savills Hotels, lượt khách quốc tế dự kiến sẽ đạt 30 triệu vào năm 2023. Đây cũng được xem là triển vọng lớn cho ngành du lịch của Việt Nam trong tương lai. 

Tuy nhiên, có một thực tế đáng lo ngại là hiện nay thị trường đang phải đón nhận một lượng lớn các dự án condotel trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng khách du lịch đang tăng chậm lại dẫn tới việc thị trường có thể sẽ phải đối mặt với sự mất cân bằng giữa nguồn cung và nguồn cầu. Điều này khiến cho chỉ số RevPAR có khả năng sẽ tiếp tục suy giảm trong tương lai.

K.Hà