âu 4. Đâu là tác phẩm văn học nổi tiếng của Trung Quốc? A. Kinh
Thi. B. Li tao. C. Cửu Ca. D. Thiên vấn. Câu 5. Các quốc gia Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại ra đời vào
khoảng A. thiên niên kỉ IV TCN. B. thiên niên kỉ III TCN. C. thế kỉ IV TCN. D. thế kỉ III
TCN. Đọc tiếp Xem chi tiết Câu 16: Ý nào sau đây không đúng? A. Tên quốc gia thời phong kiến của Việt Nam Đại Việt B. Mi-an-ma có tên thời phong kiến là Pa-gan C. Chữ Phạn cổ là chữ viết của người Trung Quốc D. Người Cam-pu-chia cổ sử dụng chữ Khơ-me cổ Xem chi tiết 1. Nêu ý nghĩa của việc học lịch sử?
2. Nêu giá trị từng loại sử liệu? 3. Khái niệm âm lịch, dương lịch? 4. Những nét chính về đời sống kinh tế, xã hội của người nguyên thủy? 5. Kể tên các quốc gia cổ đại phương Đông, phương Tây Xem chi tiết Trong các thành tựu văn hóa của người Trung Quốc cổ đại, em ấn tượng nhất với thành tựu nào, vì sao? ( ngắn gọn dễ hiểu thôi ạ ) Xem chi tiết
Trình bày điều kiện tự nhiên của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Điều kiện đó tác động như thế nào đến nền kinh tế của các quốc gia này Cứu mình với ! Xem chi tiết vì sao thủ công nghiệp và thương nghiệp là nên kinh tế chính của quốc gia cổ đại hi lạp và la mã ? Xem chi tiết Bài 8. Ấn Độ cổ đại1. Những điều kiện về tự nhiên đã tác động như thế nào đến sự hình thành của nền văn minh sông Ấn và sông Hằng thời cổ đại?…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………1. Chế độ đẳng cấp Varna đã quy định xã hội Ấn Độ được chia ra thành mấy đẳng cấp?
Đẳng cấp nào là cao quý nhất và thấp nhất?…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………2. Người Ấn Độ đã tạo lập được những giá trị như thế nào về văn hóa thời cổ đại... Đọc tiếp Xem chi tiết Thuyết trình một thành tựu văn hóa chủ yếu của cư dân ai cập thời cổ đại mà em yêu thích nhất ? Xem chi tiết VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TRUNG QUỐC Tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh Văn học hiện đại Đường thi Văn học nước Tần Đường thi Văn học nước Tần VĂN HỌC TRƯỚC TẦN 1 – KHÁI QUÁT Trung Quốc có một nền văn học phong phú đặc sắc vào bậc nhất trên thế giới. Văn học dân gian Trung Hoa thời cổ đại chắc chắn rất phong phú nhưng chỉ số ít còn giữ được đến ngày nay, trong số đó có một số ghi trong sách cổ hoặc các đồ vật cổ. Tiêu biểu nhất trong kho
tàng thơ ca cổ đại là tập Kinh Thi gồm khoảng 300 bài thơ có vị trí đặc biệt trong nền văn học và giáo dục Trung Quốc. Thần thoại và truyền thuyết được ghi trong sách cổ cũng là văn học truyền miệng trong thời kì xã hội thị tộc. Nội dung được ghi chép thường đơn giản. Sau này, đọc các bản phóng tác của nhà văn hiện đại thì câu chuyện phong phú kỳ thú hơn. Ví dụ các truyện Nữ Oa vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt trời, Hằng Nga lộng nguyệt, Tinh Vệ lấp biển, Ngưu lang Chức nữ,
vua Vũ trị thủy .v.v… Thần thoại Trung quốc tìm cách giải thích các hiện tượng tự nhiên.
THẦN THOẠI TRUNG QUỐC 1. Nhóm thần tạo lập vũ trụ Bàn Cổ lấy thân mình chống giữ, đầu đội trời, chân đạp đất. 2. Nhóm các hoàng đế đầu tiên Gọi là “Tam hoàng” gồm các vua Phục Hy, Hoàng Ðế và Thần Nông. 3 . Ngũ Ðế gồm: Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Ðế Cốc, Nghiêu và Thuấn . Truyện “Ngu Công chuyển núi“ Truyện mối tình “Ngưu lang – Chức nữ”. 4 . Nhóm thần cải tạo thiên
nhiên và xây dựng cuộc sống Truyện “Khoa Phụ đuổi mặt trời”, Truyện “Ngu Công chuyển núi“ Truyện mối tình “Ngưu lang – Chức nữ”. 5. Truyện”Hậu Nghệ bắn rụng chín mặt trời, Hằng Nga bỏ trốn lên cung nguyệt“ 7. Truyện Vọng Ðế (còn gọi Thục Ðế: vua nước Thục) 8. Nhóm truyện ba vua Vua Kiệt (nhà Hạ), vua Thành Thang (nhà Ân) và vua Trụ (nhà Ân – Thương) KINH THI Kinh Thi là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, sáng tác trong khoảng thời gian hơn năm trăm năm,
cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm. Về sau Khổng Tử biên soạn thành sách gọi là Kinh Thi dùng làm sách giáo khoa (trong bộ Ngũ kinh). Ông coi trọng việc học thơ nhằm xây dựng tình cảm đạo đức và tạo cho lời nói thêm hoa mỹ. Kinh Thi gồm ba phần: Phong, Nhã và Tụng. Phong: Còn gọi là quốc phong, có 160 bài. Nhã : Gồm tiểu nhã và đại nhã (còn gọi nhị nhã), có 105 bài. ĐƯỜNG THI Thơ Đường hay Đường thi là toàn bộ thơ ca đời Đường được các nhà thơ
người Trung Quốc sáng tác trong khoảng từ thế kỉ 7 - 10 (618 - 907). Các sáng tác của hàng nghìn nhà thơ đời Đường được bảo tồn trong cuốn Toàn Đường thi gồm 48.900 bài. Đời Thanh chọn 300 bài do Hành Đường và Trần Uyển Tuấn bổ chú thành "Đường thi tam bách thủ" được phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc, Việt Nam Các giai đoạn Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (713 - 766), Trung Đường (766 - 835), Vãn Đường (835 -
907). Thời Sơ Đường, các nhà thơ mệnh danh là "Tứ kiệt" gồm Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột đã đổi được phần nào phong khí uỷ mị của thơ các triều đại trước. Tới Trần Tử Ngang thì có phong trào đổi mới thi ca theo tinh thần phong nhã của "Kinh thi" và "phong cốt Hán Nguỵ", chủ trương làm thơ phải có "kí thác", nghĩa là nói lên tâm tình của mình, ghi lại cảm xúc thật sự của mình trước hiện thực đời sống, bỏ hẳn thơ sắc tình đời Lục triều, và thơ ca
công tụng đức, thơ ứng chế của một số nhà thơ đầu đời Đường như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn. Các nhà thơ sau Trần Tử Ngang làm thơ "kí thác" đều theo 2 khuynh hướng chính là trữ tình, lãng mạn, hoặc hiện thực xã hội. Ba đại biểu lớn là Lý Bạch , Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Màu sắc phong cách của các nhà thơ đời Đường rất khác nhau, tuỳ người sáng tác theo đạo Nho, đạo Phật hoặc theo Lão Trang. Thơ Đường có loại thơ như sau: "biên tái" (Cao Thích, Sầm Tham sáng tác), thơ
"điền viên" (Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên sáng tác), thơ "tân nhạc phủ" ( Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn sáng tác), thơ "chính nhạc phủ" đời Vãn Đường (sáng tác Bì Nhật Hưu, Đỗ Tuấn Hạc) và theo khuynh hướng hiện thực (Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị sáng tác). TIỂU THUYẾT CỔ ĐIỂN MINH - THANH Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất
tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định. Trong một cách hiểu khác, nhận định của Belinski: "tiểu thuyết là sử thi của đời tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trongkhông gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách. Ở Trung Quốc tiểu
thuyết xuất hiện rất sớm, vào thời kỳ Ngụy-Tấn (thế kỷ 3-4) tiểu thuyết đã manh nha dưới dạng những tác phẩm chi quái, chi nhân. Sang đời nhà Đường xuất hiện thể loại truyền kỳ , đời Tống lại có thêm dạng thoại bản, tất cả đều có thể coi là tiền thân của tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại. Từ đời Minh văn học Trung Quốc nói chung và văn xuôi Trung Quốc nói riêng phát triển rực rỡ với những pho tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung,
Thủy hử của Thi Nại Am , Tây du ký của Ngô Thừa Ân, Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh v.v. Đời Thanh bước phát triển của tiểu thuyết chương hồi đã tới thời điểm hoàng kim qua hàng loạt danh tác như Chuyện làng Nho (Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng củaTào Tuyết Cần. Thời hiện đại tiểu thuyết Trung Quốc vượt thoát những thể loại truyền thống, ảnh hưởng lớn từ các trào lưu văn học phương Tây đương thời với sáng tác của các tác gia như Lỗ Tấn, Giả Bình
Ao, Mạc Ngôn v.v. |