So sánh thất nghiệp và thiếu việc làm

Sự khác biệt giữa Thất nghiệp và Thiếu việc làm

ự khác biệt chính giữa thất nghiệp và thiếu việc làm là thất nghiệp là tình trạng kinh tế trong đó một cá nhân đang tích cực tìm kiếm việc l

Show
So sánh thất nghiệp và thiếu việc làm

Thất nghiệp là tình hình kinh tế khi một cá nhân thất nghiệp, đủ điều kiện làm việc và đang tìm kiếm việc làm tích cực không thể tìm được việc làm. Đây là một trong những yếu tố chính thường được xem xét để chỉ tình trạng kinh tế của một quốc gia. Tỷ lệ thất nghiệp là biện pháp được sử dụng để thể hiện mức độ của tình trạng này. Tỷ lệ thất nghiệp cao dẫn đến khủng hoảng kinh tế và xã hội trong bất kỳ xã hội nào đã được văn minh. Khi xảy ra các vấn đề kinh tế, chúng dẫn đến giảm sản xuất cả hàng hóa và dịch vụ, giảm phân phối thu nhập, thất thu thuế, giảm tỷ lệ GDP và các tác động bất lợi khác. Mặt khác, các vấn đề xã hội chủ yếu ảnh hưởng đến cá nhân và gây ảnh hưởng đến họ về mặt tâm lý và tài chính. Trầm cảm dẫn đến việc thiếu khả năng hoàn thành nghĩa vụ tài chính của họ đúng thời hạn có thể dẫn đến tình trạng sức khoẻ kém, tử vong sớm và thậm chí là tự sát.

Ngược lại, nếu có tỷ lệ việc làm cao trong một nền kinh tế, hầu hết những vấn đề này không phải là sự ràng buộc với các yếu tố khác - mức sống được nâng lên do cải thiện tỷ lệ sản xuất. Nguyên nhân của thất nghiệp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế hiện tại và cả về tư duy của cá nhân. Một số người trong số họ bao gồm thay đổi công nghệ, suy thoái, thay đổi thị trường toàn cầu, sự không hài lòng của công việc của nhân viên, sự phân biệt đối xử về việc làm và thái độ xấu đối với cơ hội việc làm.

Thất nghiệp

Việc thiếu việc làm là một tình huống kinh tế mà một công việc mà một cá nhân cam kết không sử dụng tất cả các kỹ năng và việc đào tạo mà nhân viên sở hữu. Nó xảy ra khi một sự không phù hợp giữa sự sẵn có của công ăn việc làm và mức độ giáo dục và kỹ năng sẽ xảy ra. Có hai loại điều kiện này: có thể nhìn thấy thiếu việc làm và việc thiếu việc làm không nhìn thấy được.

Tỷ lệ thiếu việc nhìn thấy

Đây là tình huống mà những người sẵn sàng và muốn làm việc nhiều giờ hơn không thể tìm được việc làm toàn thời gian và họ sẽ phải làm việc ít giờ hơn là đặc điểm của lĩnh vực của họ. Họ thường làm việc bán thời hoặc theo mùa mặc dù họ muốn làm việc toàn thời gian.Loại thiếu việc làm này là một cách dễ dàng đo được.

Thiếu việc thiếu việc làm

Đây là loại tình huống mà nhân viên đủ điều kiện để làm việc ở vị trí không sử dụng hết kỹ năng hoặc trình độ học vấn của họ và các cá nhân không nhận thức được nó. Các cá nhân thiếu kiến ​​thức về kỹ năng và giáo dục của họ có thể được sử dụng ở nơi khác và điều này làm cho loại thiếu việc làm này khó đo lường được. Một phân tích về yêu cầu công việc và trình độ của nhân viên cần được thực hiện để ít nhất là đo mức thiếu việc làm không nhìn thấy được.

Cả hai đều có hại

Cả thất nghiệp và thiếu việc làm được coi là những nhân tố tiêu cực của nền kinh tế và do đó ảnh hưởng xấu đến kinh tế. Kết quả là giảm sản xuất hàng hoá và dịch vụ, mức sống thấp khi các cá nhân gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu tài chính của họ và cuối cùng là đói nghèo. Thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp ở một mức độ nào đó cũng được biết đến là nguyên nhân của việc chảy máu chất xám cũng là điều không tốt đối với nền kinh tế. Nói chung, những ảnh hưởng của hai tình huống gần như giống nhau.

Hầu hết đều là thanh thiếu niên

Hai tình huống này phần lớn là do những người trẻ tuổi đang sống trên thị trường. Hầu hết trong số họ thiếu cơ hội việc làm mặc dù trình độ của họ và họ kết thúc tìm việc làm bán thời gian để giữ cho họ đi bởi vì vào cuối ngày họ sẽ phải ăn và đáp ứng các nghĩa vụ tài chính khác dù có được làm việc hay không. Họ trở thành thiếu việc làm bởi vì họ không có lựa chọn và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để được sử dụng ngay cả khi nó là trong một công việc mà không phù hợp với trình độ của họ.

Các yếu tố gây ra thường gặp

Một số yếu tố góp phần vào những điều kiện kinh tế này cũng phổ biến. Một ví dụ điển hình là sự thay đổi trong công nghệ là nguyên nhân của cả thất nghiệp và thiếu việc làm. Tiến bộ trong công nghệ của một tổ chức làm cho vai trò của một số nhân viên lạc hậu và do đó chúng được cắt bỏ để được thay thế bởi một số máy tự động hoặc công nghệ khác làm giảm số lượng nhân viên được yêu cầu. Nó cũng mang lại thiếu việc làm trong đó một số kỹ năng mà một số nhân viên đã nghiên cứu đã trở nên vô dụng khi quá trình tự động hóa và thực hiện bởi các máy móc. Một ví dụ là các máy ATM đã đảm nhiệm vai trò của người cho thuê tại hầu hết các tổ chức tài chính.

So sánh thất nghiệp và thiếu việc làm

Sự khác biệt Thất nghiệp và thiếu việc làm là gì?

Định nghĩa

1. Thiếu việc làm là gì?

1.1. Khái niệm thiếu việc làm

So sánh thất nghiệp và thiếu việc làm
Thiếu việc làm là gì?

Thiếu việc làm được hiểu là tình huống mà có sự không phù hợp giữa cơ hội việc làm và trình độ học vấn của người lao động. Hay cũng có nhận định khác của ILO (Tổ chức lao động quốc tế) thì thiếu việc làm là người lao động trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn dành cho những người làm việc đủ (bao gồm cả người lao động có nhu cầu làm thêm). Như vậy, khái niệm thiếu việc làm không thể đánh đồng với khái niệm thất nghiệp mà như nhiều người vẫn hay lầm tưởng.

Thiếu việc làm được chia làm 2 loại: thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình.

  • Thiếu việc làm vô hình: là tình trạng mà người lao động đạt đủ số giờ làm việc, thậm chí còn nhiều hơn số giờ làm quy định và có đủ việc làm nhưng lại hưởng mức lương thấp và không xứng đáng với công sức mình bỏ ra.
  • Thiếu việc làm hữu hình: là tình trạng mà người lao động có số giờ làm việc ít hơn so với thời gian được quy định thường lệ, họ đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm thêm và sẵn sàng làm việc dù bất kỳ hoàn cảnh nào.

1.2. Phân biệt thiếu việc làm và thất nghiệp

Nhiều người vẫn lầm tưởng rằng khái niệm thất nghiệp là cách viết khác của thiếu việc làm và ngược lại. Nhưng không, đây là hai khái niệm hoàn toàn tách biệt nhau.

Thất nghiệp là tình trạng mà người lao động đang tìm kiếm công việc nhưng không thể tìm kiếm được công việc phù hợp với chính mình trong khi đang ở độ tuổi lao động. Họ hoàn toàn mất khả năng về thu nhập. Có thể là các nhà tuyển dụng đưa ra yêu cầu quá cao, hoặc ứng viên ứng tuyển không có trình độ, chuyên môn, bằng cấp.

Còn thiếu việc làm, đó là tình trạng mà người lao động không thể tìm được điểm chung giữa cơ hội việc làm và trình độ học vấn, năng lực của mình. Người thiếu việc làm vẫn có thể đang trong giai đoạn làm việc nhưng chỉ là làm chưa đủ việc, chưa đủ số giờ. Thế nhưng, họ vẫn có khả năng kiếm ra thu nhập dù ít hay là nhiều.

Như vậy, dựa vào 2 sự phân biệt trên thì các bạn cũng đã biêt đây là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau. Và dựa vào điều đó, chúng ta có thể nhận thấy thất nghiệp có mức độ nguy hiểm hơn nhiều so với thiếu việc làm. Tuy nhiên, thiếu việc làm lâu dài cũng có khả năng khiến người lao động sẽ dễ dàng đi đến thất nghiệp.

1.3. Thiếu việc làm gây nên hậu quả gì?

Thiếu việc làm gây nên hậu quả gì và nó có trầm trọng hay không? Đây là câu hỏi nhận được sự băn khoăn khá nhiều của người lao động. Và đây là câu trả lời.

Về phía doanh nghiệp hay các tổ chức kinh tế, thiếu việc làm hay bất kỳ một tình huống tiêu cực nào xảy ra cũng đều ảnh hưởng xấu tới năng suất và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp hay công ty đó. Vấn đề ở đây là bạn vẫn phải chi trả lương cho người lao động đó, trong khi họ đang làm thiếu số giờ làm được quy định, cũng như làm thiếu việc. Điều này phần nào ảnh hưởng xấu tới năng suất làm việc chung của công ty, thể hiện rõ nhất là ở lợi nhuận của doanh nghiệp đó.

Về phía người lao động, chính bản thân họ là người chịu ảnh hưởng và thiệt thòi lớn nhất. Thứ nhất, đó là mức lương thấp. Việc làm thiếu giờ, thiếu việc làm chắc hẳn người lao động đó sẽ không thể hưởng mức lương như cũ được nên sẽ tác động tới các hoạt động chi tiêu của người đó. Thứ hai, đó là mất đi cơ hội và lãng phí thời gian. Thay vì theo đuổi tiếp một công việc nhưng lại có kết quả làm việc không tốt (cụ thể là thiếu việc làm) thì người lao động có thể tìm kiếm được các công việc hấp dẫn hơn, tốt đẹp hơn và thậm chí là có nhiều cơ hội phù hợp hơn dành cho bạn.

Chình vì vậy, người lao động phải luôn hết sức kỹ lưỡng khi đưa ra quyết định trong công việc nhé!

Thế nào là việc làm và thất nghiệp: Một số câu hỏi thường gặp

Ông Phú Huỳnh, chuyên gia kinh tế lao động, Tổ chức Lao động Quốc tế tại Châu Á – Thái Bình Dương

Tin | Ngày 17 tháng 9 năm 2014

1. Tại sao tỷ lệ thất nghiệp ở Viêt Nam chưa đầy 2% trong khi ở nhiều nước phát triển là 2 con số? Tại sao lại có sự khác biệt này?

Tỷ lệ thất nghiệp thấp có thể không thể hiện được tỷ lệ nghèo, bởi vì tỷ lệ thất nghiệp cao thường chỉ có ở các nước phát triển với tỷ lệ nghèo thấp.
Ở những quốc gia với những hạn chế về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và các phúc lợi xã hội khác, đơn giản là nhiều người không thể tồn tại nổi nếu bị “thất nghiệp”. Họ phải tìm kế sinh nhai bằng mọi cách, và thông thường họ chấp nhận làm những công việc chất lượng kém, trả lương thấp trong nền kinh tế phi chính thức hoặc chấp nhận những thỏa thuận làm việc một cách không chính thức.
Ngược lại, ở những nước phát triển với hệ thống bảo trợ xã hội tiên tiến và mức sống cao hơn, người lao động có thể tồn tại trong hoàn cảnh thất nghiệp và dành thời gian đi tìm những công việc mà họ mong muốn.
Bởi vậy, việc so sánh tỷ lệ thất nghiệp giữa các quốc gia có đặc điểm xã hội, kinh tế và thế chế rất khác nhau là khập khiễng và có thể dẫn đến những thông điệp sai lầm.

2. Hạn chế của việc sử dụng tỷ lệ thất nghiệp như một thước đo cho các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam?

Hạn chế của việc sử dụng tỷ lệ thất nghiệp làm thước đo cho các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam là nó không thể hiện được đầy đủ tình trạng của thị trường lao động. Những nước này không có đủ những việc làm tốt, bền vững với năng suất cao, dẫn đến việc không sử dụng được đầy đủ tiềm năng của lực lượng lao động (labour underutilization) như tỷ lệ thiếu việc làm cao, thu nhập thấp và năng suất lao động thấp.
Như vậy, việc theo dõi thị trường lao động ở các nước đang phát triển như Việt Nam cần có những chỉ số thể hiện được chất lượng việc làm. Chẳng hạn, những chỉ số này bao gồm tỷ lệ lao động nghèo, tỷ lệ việc làm dễ bị tổn thương, tỷ lệ nền kinh tế phi chính thức, tỷ lệ ngành nông nghiệp trong số việc làm, năng suất lao động và lương bình quân.
So sánh thất nghiệp và thiếu việc làm

Nguồn: ILO, Trends Econometric Models, 2013

3. Tại sao số doanh nghiệp phá sản, đóng cửa cao hơn số doanh nghiệp thành lập mới mà thất nghiệp lại giảm?

Trong quý 2/2014, thất nghiệp giảm so với cùng kỳ năm trước bởi vì sự gia tăng việc làm (436.000) cao hơn so với với tốc độ gia tăng của lực lượng lao động (273.000). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng số lượng chủ lao động giảm (giảm 208.000) trong khi số lượng người lao động được trả lương tăng (453.000). Điều này phần nào thể hiện tính phức tạp của nền kinh tế và thị trường lao động Việt Nam. Trong khi một số doanh nghiệp gặp khó khăn, một số khác lại phát triển tốt hơn và có khả năng thuê thêm nhiều nhân công.
Tuy vậy, một số người lao động mất việc không thể tìm một công việc được trả lương khác nên quay trở về với gia đình và làm việc như những người lao động gia đình không được trả lương. Bởi vậy, việc cải thiện dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động sẽ giúp những người lao động tìm việc ở Việt Nam trong những thời điểm kinh tế thay đổi nhanh chóng.

4. Những vấn đề chính đối với thị trường lao động Việt Nam?

Thị trường lao động Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong vài thập kỷ qua. Điều này được thể hiện qua mức lương cao hơn, tốc độ giảm đều đặn của các việc làm trong ngành nông nghiệp, và pháp luật lao động được cải thiện.
Nhưng mặc dù có những tiến bộ như vậy, gần một nửa người số lao động Việt nam vẫn đang làm việc trong ngành nông nghiệp – ngành có năng suất lao động và thu nhập thấp. Cứ mỗi 5 người lao động thì khoảng 3 người làm những công việc dễ bị tổn thương (lao động tự làm và lao động gia đình không trả lương) – đó là những công việc có điều kiện làm việc đặc biệt không đảm bảo.
Nhìn chung, năng suất lao động và lương của Việt Nam tương đối thấp so với các nền kinh tế khác trong khu vực ASEAN như Malaysia, Singapore và Thái Lan.
Bởi vậy, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực tăng cường pháp luật lao động, cải thiện việc tuân thủ luật pháp, thúc đẩy hệ thống quan hệ lao động và các cơ sở đào tạo, phát triển kỹ năng.

5. Cơ hội và thách thức đối với thị trường lao động Việt Nam trong thời kỳ dân số vàng? Cần phải làm gì để nắm bắt được những cơ hội đó?

Cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam thể hiện tỷ lệ lớn dân số trong độ tuổi lao động và giảm tỷ lệ phụ thuộc. Nếu Việt Nam có thể tạo ra đủ việc làm có chất lượng cao để đáp ứng nguồn lao động đang mở rộng, Việt Nam có thể đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và giải quyết những lỗ hổng trên thị trường lao động.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô và các thể chế về thị trường lao động vững mạnh hơn sẽ giúp tạo ra một môi trường kinh doanh tốt hơn, thu hút đầu tư và kích cầu. Thêm vào đó, cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo và chất lượng của các nhà cung cấp dịch vụ việc làm sẽ giúp người lao động Việt Nam và người tìm việc đáp ứng được các nhu cầu của doanh nghiệp và ngành nghề và nắm bắt những cơ hội việc làm mới và tốt hơn.

Theo ông Tite Habiyakare, chuyên gia về thống kê lao động, Tổ chức Lao động Quốc tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khái niệm quốc tế về thất nghiệp hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay xuất phát từ Nghị quyết của Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế (ICLS) lần thứ 13 năm 1982. Khái niệm này được sử dụng phần lớn các nước trên thế giới, cả ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển.

Số liệu về thất nghiệp ở Việt Nam do Tổng cục Thống kê thu thập và xử lý qua các cuộc điều tra lao động việc làm định kỳ hoàn toàn tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế.

Theo tiêu chuẩn quốc tế, “người thất nghiệp” bao gồm những người ở độ tuổi nhất định (chẳng hạn từ 15 tuổi trở lên) mà trong thời gian khảo sát (thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó) đáp ứng tất cả 3 điều kiện: “không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1 giờ, không làm việc làm công ăn lương lương hoặc việc tự làm), “sẵn sàng làm việc” và “đang tìm việc”.

Như vậy, “thất nghiệp” là một thái cực trên một dải lực lượng lao động bao gồm cả những người “thiếu việc làm” và “có việc làm”.

Tuy nhiên các tiêu chuẩn quốc tế này đã thay đổi bởi ILCS lần thứ 19 tháng 10 năm 2013 với một cách thức thống kê mới. Hệ thống mới nhằm cải thiện việc đo lường các loại hình việc làm khác nhau, ví dụ như những công việc tự sản xuất (own use production work), công việc được trả lương, thực tập không có lương, và việc làm tự nguyện (volunteer work). Nó đồng thời thu hẹp khái niệm về việc làm để thể hiện tốt hơn những gì được coi là “việc làm theo định hướng thị trường” (market-oriented job).

Theo định nghĩa mới, những người có việc làm là những người trên 15 tuổi mà trong một khoảng thời gian ngắn nhất định (thường là 1 tuần hoặc 7 ngày), có tham gia vào một hoạt động sản xuất ra hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ để được trả lương hoặc kiếm lợi nhuận. Nói theo cách khác, đó là những người làm việc ở một công việc được trả lương hoặc một việc tự kinh doanh để kiếm lợi nhuận trong khoảng thời gian ít nhất là 1 giờ trong giai đoạn khảo sát.

Điều này sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ có việc làm đối với nhiều quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nơi phần lớn người lao động làm việc trong ngành nông nghiệp tự cung tự cấp với rất ít hoặc không có sự kết nối với nền kinh tế thị trường. Khi định nghĩa mới được áp dụng, các cuộc điều tra về thị trường lao động sẽ đo lường được tốt hơn bộ phận thất nghiệp ở nền kinh tế thị trường (thay vì bị lẫn lộn với ngành nông nghiệp tự cung tự cấp) và giúp chỉ ra được tình trạng không sử dụng được đầy đủ tiềm năng của lực lượng lao động (labour underutilization) trong nền kinh tế.

Việt Nam là một nước ủng hộ mạnh mẽ sự thay đổi về thống kê việc làm tại Hội nghị ICLS lần thứ 19 năm ngoái.

Khu vực và Quốc gia: Châu Á và Thái Bình Dương, Việt Nam

Công cụ

Nội dung này được thể hiện bằng

  • English
  • A
  • A+
  • A++
In
Chia sẻ nội dung này
in

1. Tìm hiểu về việc làm:

Ta hiểu về việc làm theo quy định của pháp luật Việt Nam như sau:

Việc làm được hiểu cơ bản là các hoạt động lao động, tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập và việc làm là dạng hoạt động của mỗi cá nhân nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và được xã hội công nhận.

Bên cạnh đó Bộ luật lao động năm 2019 tại điều 9 có giải thích về khái niệm việc làm. Cụ thể:

“Điều 9. Việc làm, giải quyết việc làm

Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà pháp luật không cấm.

Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm.”

Từ đó có thể thấy rõ dưới góc độ pháp lý, việc làm được cấu thành bởi 3 yếu tố:

– Việc làm được hiểu là hoạt động lao động: thể hiện sự tác động của sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Yếu tố lao động trong việc làm phải có tính hệ thống, tính thường xuyên và tính nghề nghiệp. Vì vậy người có việc làm thông thường phải là những người thể hiện các hoạt động lao động trong phạm vi nghề nhất định và trong thời gian tương đối ổn định.

– Việc làm giúp tạo ra thu nhập: Là khoản thu nhập trực tiếp và khản năng tạo ra thu nhập.

– Hoạt động việc làm phải hợp pháp: hoạt động lao động tạo ra thu nhập nhưng trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận thì không được coi là việc làm . Tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, tập quán, quan niệm về đạo đức của từng nước mà pháp luật có sự quy định khác nhau trong việc xác định tính hợp pháp của các hoạt động lao động được coi là việc làm. Đây là dấu hiệu thể hiện đặc trưng tính pháp lí của việc làm.

Xem thêm: Những mẫu đơn xin việc làm viết tay chuẩn và hay nhất năm 2022

Vai trò của việc làm:

Khi đi tìm hiểu và hiểu rõ về khái niệm việc làm là gìthì chúng ta càng thấy rõ Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.

Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc làm của cá nhân gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề.

Đối với kinh tế thì lao động, thì ta hiểu việc làm là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế.

Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, chính bởi vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt khác nó tác động tiêu cực.

Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội , không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…

Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho các chủ thể là những người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người.