Dựa vào hiến pháp 2013 hãy so sánh quyền con người và quyền công dân

Quyền con người là gì?

Quyền con người là toàn bộ những quyền của một cá nhân được sinh ra trong xã hội, đây là một quyền mang tính chất nhân bản bởi nó là quyền được hình thành ngay sau khi cá nhân đó được sinh ra trong xã hội, nó được sinh ra từ bản chất con người chứ không phải do pháp luật ban hành hoặc do nhà nước trao cho quyền đó.

Trước khi đi vào phân biệt quyền con người và quyền công dân, chúng tôi xin đi vào khai niệm của Quyền con người.

Trong “Quyền con người”, nhà nước và pháp luật chỉ ghi nhận và bảo vệ quyền đó của con người. Đây là một quyền tự nhiên của mỗi người, được tạo hóa ban cho con người giống như quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản và tối thiểu của con người mà bất kỳ ai cũng cần được bảo vệ.

Quyền con người không chỉ được công nhận trên góc độ quyền tự nhiên củ một cá nhân mà còn được ghi nhận trên quan điểm pháp lý như sau.

Theo đó, theo quy định của pháp luật thì “ quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chổng lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người”.

Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân

01/06/2014

ThS. NGUYỄN DUY QUỐC

Văn phòng Thành ủy Cần Thơ

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn
Hiến pháp năm 2013 – với cách tiếp cận mới về quyền – đã đóng một dấu mốc ý nghĩa trong lịch sử lập hiến Việt Nam về việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, thể hiện đầy đủ tư tưởng về chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ. Bài viết có mục đích phân tích và làm rõ những điểm mới liên quan đến một trong những nội dung quan trọng bậc nhất của bản Hiến pháp năm 2013: quyền con người, quyền cơ bản của công dân
Dựa vào hiến pháp 2013 hãy so sánh quyền con người và quyền công dân
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Quan niệm về quyền con người, quyền cơ bản của công dân
Tư tưởng về quyền con người (human rights, droits de l’home), cũng có thể gọi là “quyền của con người” - “rights of human person” hình thành cùng với sự xuất hiện của những nền văn minh cổ đại, quyền con người xuất phát từ các quyền thiêng liêng, tự nhiên, vốn có của con người, không do chủ thể nào ban phát. Quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Ví dụ, về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước như quyền công dân, mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại, về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, nên chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của “gia đình nhân loại”, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch,... Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền.
Quyền con người được diễn đạt dưới nhiều giác độ khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh xã hội, văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo; mục tiêu và định hướng của mỗi thể chế chính trị, mỗi kiểu nhà nước, quan điểm của từng giai cấp cầm quyền; hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi cá nhân và của từng ngành khoa học như; triết học, chính trị học, luật học, xã hội học...
Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người luôn được cụ thể hóa bằng những quyền cơ bản của công dân (do được ghi nhận trong hiến pháp) và bao giờ cũng được xem là một chế định pháp luật rất quan trọng - đây là một trong những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thông qua đó, có thể xác định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội.Vì vậy, những nhà lập pháp Việt Nam luôn hoàn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản của công dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền với nghĩa vụ của công dân.
Khái niệm công dân trước hết biểu hiện tính chất đặc biệt của mối quan hệ pháp luật giữa nhà nước với một số cá nhân con người nhất định, khái niệm công dân hẹp hơn khái niệm cá nhân (con người), bởi vì trong một quốc gia không những chỉ có công dân của quốc gia đó mà còn có công dân nước khác và những người khôngquốc tịch. Như vậy, công dân xét về mặt pháp luật thuộc về một nhà nước nhất định, nhờ đó mà con người được hưởng những quyền của nhà nước quy định và đồng thời phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước đó. Trong Hiến pháp năm 2013, tại điều 17 cũng ghi nhận “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”, nên khái niệm công dân gắn liền với khái niệm quốc tịch. Theo nghĩa, quốc tịch là mối liên hệ giữa một cá nhân con người với một nhà nước nhất định, nếu là công dân của một nhà nước thì được hưởng đầy đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật của nhà nước đó quy định, những người không phải là công dân của nhà nước đó thì quyền lợi và nghĩa vụ đương nhiên sẽ bị hạn chế.
Khái niệm “công dân” cũng có thể là mối quan hệ pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại cả trong những trường hợp mà công dân Việt Nam đã sinh sống ở nước ngoài nhưng vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 tại điều 18 cũng quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”. Như vậy, xuất phát từ mối quan hệ giữa Nhà nước Việt Nam với công dân nước ngoài và người không có quốc tịch, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và căn cứ vào những điều ước đã kí kết giữa Nhà nước Việt Nam với nước ngoài; mối quan hệ pháp luật đặc biệt đó thông thường phát sinh từ lúc những người nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt khi họ rời khỏi lãnh thổ Việt Nam; mối quan hệ đó thường mang tính chất nhất thời, không có sự gắn bó lâu dài như mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước.
Trong hầu hết các nhà nước, địa vị pháp lý của công dân được hình thành bởi tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh về mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước, bên còn lại là công dân. Nội dung những quy phạm pháp luật tạo nên địa vị pháp lí của công dân, ở những nước khác nhau thì khác nhau, bởi địa vị pháp lý của công dân phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, truyền thống … của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, cần thiết phải thấy rằng; địa vị pháp lý của công dân ở các nước trên thế giới ngày nay cũng có nhiều nét tương đồng.Các quy phạm pháp luật về địa vị pháp lý của công dân bao gồm nhiều chế định: quốc tịch, năng lực chủ thể của công dân, các quyền tự do và nghĩa vụ của công dân, các biện pháp đảm bảo thực hiện quy chế công dân; mỗi chế định điều chỉnh một mặt trong địa vị pháp lý của công dân.
Xét về nguồn gốc lịch sử, khái niệm “quyền công dân” (citizen’s rights) xuất hiện cùng với các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng tư sản đã biến con người từ địa vị thần dân trong chế độ nhà nước quân chủ thành địa vị công dân trong hình thức nhà nước tư sản. Như vậy, khi đề cập đến quyền công dân là đề cập đến một bộ phận quyền con người theo các quy định của pháp luật với tư cách là một thành viên bình đẳng trong nhà nước, cho nên có thể nói quyền con người và quyền công dân có nội dung rất gần nhau. Tuy nhiên, quyền công dân không phải là hình thức cuối cùng của quyền con người mà nó thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và phải được thông qua một chế định pháp luật nhất định, đặc biệt là chế định về quốc tịch.
Theo từ điển tiếng Việt thì “quyền công dân” được hiểu là “quyền của người công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân chủ và các quyền kinh tế văn hóa - xã hội”[1]. Như vậy, theo chúng tôi, có thể hiểu “quyền công dân” là quyền con người, được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình, là tập hợp những quyền đượcHiến pháp và pháp luật của mỗi Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện. Theo quan niệm của Mác, quyền công dân là những quyền chính trị, những quyền cá nhân con người, với tư cách là thành viên “xã hội công dân”. Như vậy, khái niệm “quyền công dân” xuất hiện sau sự xuất hiện của khái niệm “quyền con người” và được gắn liền với thời điểm ra đời của nhà nước tư sản và duy trì, phát triển đến xã hội ngày nay. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, khái niệm về quyền con người, quyền công dân ít khi được đề cập, cho nên có quan niệm quyền con người và quyền công dân là đồng nhất. Việt Nam cũng vậy, hầu hết trong các bản Hiến pháp đều không ghi nhận về quyền con người (trừ Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013), chỉ ghi nhận về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 1992, tại Điều 50 ghi nhận về quyền con người: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” - ở đây vẫn chưa có sự phân định rạch ròi giữa quyền con người và quyền công dân, quyền công dân như là hình thức pháp lý của quyền con người.
Kế thừa tư tưởng của các hiến pháp trước đó về quyền con người, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Chương 2 với tiêu đề: “QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN”. Theo đó,Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. Như vậy, quyền con người và quyền công dân đã được hiểu ở hai nghĩa khác nhau: quyền con người và quyền công dân là những quyền độc lập với nhau; và quyền công dân là một bộ phận của quyền con người, quyền công dân là sự biểu hiện của quyền con người, được Hiến pháp và pháp luật thừa nhận. Chẳng những Việt Nam mà cộng đồng quốc tế cũng đều mong muốn hướng tới việc bảo vệ, phát triển quyền công dân cũng như bảo vệ các giá trị về quyền con người dựa trên sự ghi nhận của Hiến pháp và pháp luật của từng quốc gia phù hợp với thông lệ và quy định mang tính quốc tế.
2. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam về quyền con người, quyền công dân
Sự đấu tranh bảo vệ, giải phóng loài người thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, đi đến xây dựng xã hội dân sự, thực sự dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các dân tộc. Chính vì điều đó, quyền con người, quyền công dân là yếu tố quan trọng trong mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản nhất trong mọi hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.
Nhìn ở góc độ về khái niệm, “quyền con người” không loại trừ và không thay thế được khái niệm “quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm đặt vị trí của chương “Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” -Chương II. Có thể nói đây cũng chính là sự kế thừa “vị trí” của Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, do nhiệm vụ chính trị của các thời kỳ là khác nhau nên có điều khác biệt, nếu như Hiến pháp năm 1946 đặt nghĩa vụ của công dân lên trước thì Hiến pháp năm 2013 lại đặt quyền của công dân lên trước. Một mặt điều này cho thấy quan điểm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, một mặt cho thấy quyền và nghĩa vụ trong tất cả các thời kỳ là có mối quan hệ mật thiết với nhau, có sự kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so với Hiến pháp trước.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí” Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 – Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980. Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42, Điều 43), sửa đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20 đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều (là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49), trong đó có những nội dung cực kỳ quan trọng cụ thể như sau:
- Điều 14 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đây thực chất là sự hiến pháp hóa quan điểm của Đảng về quyền con người “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định”[2] [3]. Như vậy, lần đầu tiên trong Hiến pháp Việt Nam ghi nhận “Quyền con người”, điều này cho thấy không phải các bản Hiến pháp trước đó chúng ta không ghi nhận về “quyền con người” (nhân quyền) mà trước đây chúng ta chưa phân biệt rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”, hay nói cách khách chúng ta đã đồng nhất hai khái niệm trên, cũng chính vì điều này mà chúng ta bị các thế lực thù địch xuyên tạc Nhà nước ta không quan tâm đến “quyền con người”, vi phạm nhân quyền…lần ghi nhận này có ý nghĩa hết sức quan trọng một mặt chúng ta phân biệt rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”, ghi nhận “quyền con người” đứng trước “quyền công dân” cũng có nghĩa là chúng ta ghi nhận “quyền con người” có nội hàm rộng hơn “quyền công dân”, “quyền công dân” là một bộ phận của quyền con người, đồng thời cũng ghi nhận từ trước đến nay chúng ta luôn thừa nhận quyền con người đã được cụ thể hóa trong quyền công dân mà các Hiến pháp trước đây đã công nhận, có điều chúng ta chưa tách bạch độc lập về hai khái niệm trên.
- Điều 15 ghi nhậnbốn nguyên tắt hết sức cơ bản: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Điều 16 ghi nhận một vấn đề hết sức cơ bản, bằng việc tiếp thu những giá trị của nhân loại về quyền con người, đã nâng cao thêm tính công bằng công lý cho “mọi người” (kể cả công dân Việt Nam và người nước ngoài và người không quốc tịch), mở rộng đối tượng được hưởng tính công bằng này là “mọi người” chứ không chỉ riêng cho “công dân” như Hiến pháp năm 1992, mặc dù về mặt nhận thức trước đây chúng ta cũng muốn công bằng cho mọi người nhưng việc thể hiện chưa sâu sắc “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
- Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) là sự sáng tạo, khẳng định sức mạnh của một quốc gia độc lập ngang tầm, bình đẳng với các quốc gia khác, dân tộc khác trên thế giới “...Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giao nộp cho Nhà nước khác. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài” cũng nhằm khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới là một “bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
- Điều 19 ghi nhận “Mọi người có quyền sống...” đây là một điều mới, ghi nhận một quyền mới, đã thể chế một quyền hết sức cơ bản, quyền tự nhiên của con người vừa phù hợp công ước quốc tế về quyền con người vừa khẳng định tính khởi thủy của quyền con người như là một sinh vật sống và tồn tại trong thế giới khách quan.
- Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) thể hiện tính phù hợp hơn của tinh thần nhà nước pháp quyền, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ quan tòa án nhưng cũng khẳng định một trong những quyền của con người là được tòa án xét xử khi bị buộc tội, như vậy có thể hiểu rằng không một cơ quan nào khác được thực hiện quyền này nhằm đảm bảo tính công bằng công lý cho tất cả những người phạm tội và việc xét xử ấy cũng chỉ được xét xử bằng chính pháp luật và chỉ bằng pháp luật, họ có thể sử dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa để có thể “gỡ” tội cho chính mình: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm”; trong điều này ghi nhận hai quyền cơ bản; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác.
- Điều 29 ghi nhận: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Đây là sự phát triển Điều 53 của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục khẳng định quyền được trưng cầu ý kiến, cách thể hiện cô đọng hơn và có sự giới hạn về độ tuổi của người dân được trưng cầu, phải là “công dân đủ mười tám tuổi trở lên”, việc giới hạn độ tuổi như vậy cũng là cần thiết và phù hợi với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
- Các Điều 30, Điều 31 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 tại các Điều 74, Điều 72 và có tiếp thu tinh thần Nghị quyết số 49 về cái cách tư pháp, cải cách hành chính và các vấn đề về quyền khiếu nại, tố cáo.
- Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) đã ghi nhận hết sức cơ bản về quyền sở hữu tư nhân, việc ghi nhận này đã giúp cho việc nhìn nhận của thế giới về tính công bằng giữa chế độ sở hữu tư nhân và công hữu “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”. Việc ghi nhận này giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài hiểu thêm về chế độ tư hữu ở Việt Nam là hiện hữu, không thể hiểu nhầm khi họ đầu tư là sợ quốc hữu hóa về tài sản như trước đây, tránh việc các thế lực thù địch lợi dụng công kích và theo đó, cũng giúp việc ghi nhận tại Chương III quy định về chế độ kinh tế là không cần liệt kê các thành phần kinh tế như các bản Hiến pháp trước nữa mà chỉ cần ghi nhận nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế có nhiều thành phần, cũng có thể hiểu rằng Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng quyền về tự do kinh doanh của mọi người, mở rộng hơn nữa quyền con người trong lĩnh vực kinh tế.
- Các Điều 41, Điều 42, Điều 43 là các điều mới ghi nhận những quyền thuộc về lĩnh vực đời sống tinh thần mà trước đây trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện, đó cũng do những điều kiện khách quan đang cho phép, đồng thời cũng buộc chúng ta phải ghi nhận, đặc biệt cần quan tâm “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); “công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42); “mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” (Điều 43), sự thừa nhận này có thể hiểu giá trị con người cần được đề cao, đáng được đề cao và xem trọng. Đặc biệt là ghi nhận một quyền mới “quyền được sống trong môi trường trong lành” là điều hiển nhiên trong một xã hội văn minh, việc ghi nhận này có thể nói là khá muộn. Tuy nhiên, đã thể hiện sự cầu thị, tiếp thu, kế thừa những giá trị của nhân loại, làm điều kiện thúc đẩy môi trường xã hội văn minh, tiến bộ.
Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã làm rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Sự tách bạch này đã góp phần củng cố lý luận về quyền con người, quyền công dân, làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cũng như áp dụng vào thực tiễn. Có thể nói,Hiến pháp năm 2013 như một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam đối với các qui định về quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới cụ thể, thể hế hóa nguyên tắc “công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm” trong lĩnh vực kinh doanh tại Điều 33 “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng bổ sung cơ bản cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền công dân và giữ nguyên phần nghĩa vụ, tuy nhiên có sự thay đổi về cách bố trí vị trí của phần nghĩa vụ, theo đó một phần nghĩa vụ được đặt lên trước (Điều 15) liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước. Cách bố trí này có phần giống với cách bố trí của Hiến pháp năm 1946, phần còn lại bố trí phía sau (Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47…). Ngoài ra cách thứ ba vẫn lồng ghép nghĩa vụ vào quyền của công dân như “quyền và nghĩa vụ học tập”, “quyền và nghĩa vụ lao động”… Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận lại những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận bằng cánh ghi nhận đổi mới theo hướng vĩ mô, tinh gọn, bao quát vấn đề hơn cách ghi nhận của các bản Hiến pháp trước đó.
3. Kết luận
Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, hơn suốt hai mươi năm qua các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và thực thi thông qua việc ghi nhận nội dung quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và nhân dân Việt Nam về sự quan tâm có tiếp thu, kế thừa những quan điểm, giá trị tiến bộ của truyền thống dân tộc, của thế giới, cùng những kinh nghiệm lập hiến, lập pháp của các nước tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội nước nhà.
Với phương châm “tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” đã được thể hiện ngày càng đầy đủ hơn về những nội dung liên quan quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã chứng minh Việt Nam luôn quan tâm đến công dân cũng như luôn quan tâm đến việc phát triển con người Việt Nam, phù hợp với cách tiếp cận của Liên hợp quốc trong việc thực hiện quyền con người nhằm xây dựng, kết mối quan hệ đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.


[1] Đại từ điển Tiếng Việt (1999). Viện Ngôn ngữ. NXB Văn hóa Thông tin. Hà Nội. Trang 1384.
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Công sản Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia. HN 2011. Tr. 85.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 12(268), tháng 6/2014)

05(99)/2016

Dựa vào hiến pháp 2013 hãy so sánh quyền con người và quyền công dân

Mục lục

  • 0.Dẫn nhập
  • 1.Về tên chương và vị trí của chương
  • 2.Về bố cục các nhóm quyền trong chương
  • 3.Về tư duy (nguyên tắc) lập hiến
  • 4.Một số quyền mới
  • 5.Một số quyền cơ bản của công dân được sửa đổi, bổ sung, quy định lại
  • 6.Tài liệu tham khảo

so sánh quyền công dân và quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.82 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề về quyền con người và quyền công dân luôn là mối quan tâm của
toàn nhân loại ở từng thời kỳ phát triển của nó, bằng chứng là các bản tuyên ngôn
của các quốc gia phát triển nhất trên thế giới như Mỹ, Pháp đều đề cập đến vấn
đề này. Quyền con người lần đầu tiên được trang trọng ghi nhận trong Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ:”Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm hại được ,trong những
quyền đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và công dân quyền nổi tiếng của nước Pháp năm
1971 cũng khẳng định:”Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Quyền con người được luật pháp
quốc tế bảo vệ .Ngày 19/12/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua và
công bố tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Ngày 19/12/1966, Đại hội đồng
Liên hiệp quốc đã thông qua hai công ước quốc tế về quyền con người.
Quyền công dân cũng được mọi công dân của mỗi nước quan tâm và được
nhà nước bảo vệ, mà cụ thể ở Việt Nam là quyền và nghĩa vụ của công dân được
thể hiện trong bốn bản Hiến pháp và ngày càng rõ nét.
Thêm vào đó, quyền con người và quyền công dân là những vấn đề có lịch
sử lâu đời cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận, đều gắn liền và là thành
quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng tư sản, phản ánh quá trình nhân loại
tự giải phóng mình. Vì vậy, chúng em xin chọn đề tài “so sánh quyền công dân
và quyền con người “ làm đề tài cho bài tập nhóm tháng 1 của mình. Trong quá
trình làm bài chúng em không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, chúng em
kính mong các quý thầy cô góp ý sửa chữa để rút kinh nghiệm và làm bài tập sau
tốt hơn! Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1


I.


KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN:
- Nhân quyền, hay quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là

những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ
chính thể nào.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, tuy nhiên, định nghĩa
của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên
cứu, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal
legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omission) làm tổn hại đến nhân phẩm, tự
do cơ bản (fundamental freedoms) của con người.”
Bên cạnh đó, nhân quyền còn được định nghĩa một cách khái quát là những
quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta
sẽ không thể sống như một con người.
- Dân quyền, hay quyền công dân là quyền được làm công dân của một
cộng đồng xã hội, chính trị, hoặc quốc gia, là khả năng xử sự của mỗi công dân
được Nhà nước quy định trong Hiến pháp của mỗi quốc gia.
II.

SO SÁNH QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN:

1. Điểm giống nhau :
Quyền công dân và quyền con người là hai phạm trù rất gần gũi với nhau
nhưng không đồng nhất. Nhân quyền và dân quyền đều là những quyền lợi mà
mọi công dân đều được hưởng và được bảo vệ( trừ những người không có quốc
tịch). Trong đó quyền công dân có nghĩa hẹp hơn so với quyền con người, về
bản chất quyền công dân là những quyền con người được nhà nước thừa nhận
và áp dụng cho công dân nước mình. Một số quyền công dân cũng là quyền con
người như:quyền được có nhà ở, quyền tự do kinh doanh buôn bán, tự do ngôn
2



luận, quyền được học tập, quyền được tham gia quản lí nhà nước và xã hôi,
quyền được bảo vệ về sức khỏe…
Ở Việt Nam quyền con người và quyền công dân ra đời và phát triển gắn
liền với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và lịch sử lập hiến nước
nhà. Nó đc thể hiển 1 cách nhất quán trong cả 4 bản hiến pháp,ghi nhận các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam.Đất nước ngày càng phát
triển,nhân quyền và dân quyền cũng ngày 1 được mở rộng thể hiện sự tôn trọng
của nhà nước với quyền lợi của nhân dân,nâng cao niềm tin của nhân dân với
đất nước.Sự quản lí của nhà nước không nhằm hạn chế các quyền và tự do của
con người mà mong muốn phát triển hoàn thiện hơn các quyền con người mà
nhân dân Việt nam đáng được hưởng đã ghi nhận trong các công ước quốc tế.
Một cá nhân( trừ những người không quốc tịch) về danh nghĩa đều là chủ
thể của cả hai loại nhân quyền và dân quyền nếu họ sinh sống trong quốc gia
mà họ đăng kí quốc tịch.Nếu đang sinh sống tại nước ngoài thì họ sẽ chỉ được
hưởng những quyền con người cơ bản như “quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc” ngoài ra một số quyền lợi đặc thù như bầu cử, ứng cử thì
họ sẽ không được thừa nhận và bảo vệ.
2. Điểm khác nhau :
a. Về mặt chủ thể:
Chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của gia đình nhân
loại, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch...Chủ thể của quyền con người là mỗi
con người mà ngay từ khi họ được sinh ra thì tạo hoá đã ban cho họ cái mà được
gọi là “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Nói cách khác,
quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc
mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên
giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể.

3



Còn chủ thể của quyền công dân có thể là “các cá nhân đặt trong mối
quan hệ với nhà nước, dựa trên tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi
cá nhân được nhà nước đó quy định tạo nên địa vị pháp lý của công dân”. Mặc
dù chủ thể của quyền công dân được hiểu là các cá nhân đặt trong quan hệ với
nhà nước, được thể hiện trong tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi
cá nhân đó được nhà nước đó quy định, do vậy quyền công dân chỉ mang tính
chất quốc gia. Đối với những chủ thể không phải là công dân nước sở tại hoặc
không mang quốc tịch của một nhà nước nào thì họ vẫn có được những quyền
hạn chế của công dân hoặc phải thực thi những nghĩa vụ cũng hạn chế của công
dân đối với xã hội, nhà nước nơi họ sinh sống, cư trú.
b. Về cơ sở pháp lý:
- Quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi, được ghi
nhận trong các công ước quốc tế về nhân quyền như Công ước quốc tề về xoá
bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc tế về quyền trẻ em,… Và trong Bộ
luật quốc tế về quyền con người, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.
Theo điều 7, tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của liên hợp quốc
10/12/1948, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được bảo vệ
không có bất kì sự phân biệt nào. Mọi người có quyền được bảo vệ hợp pháp để
chống lại mọi sự phân biệt vi phạm bản tuyên ngôn này và chống lại mọi lý do
của một sự phân biệt như vậy.
Còn quyền công dân gắn liền với mỗi quốc gia, được pháp luật của mỗi quốc
gia quy định và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia mà nội dung, số lượng, chất
lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Điều 4,
Chương I của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khẳng
định vai trò "lãnh đạo Nhà nước và xã hội" của Đảng Cộng sản Việt Nam, do
4



đó không có tranh cử giữa các đảng phái. Theo đó duy nhất có một Đảng Cộng
sản hợp pháp hoạt động. Điều này đi ngược với đa số các quốc gia khác trên thế
giới, khi hầu hết các quốc gia đều có nhiều đảng phái để đảm bảo quyền tự do
lập hội.
Tuy nhiên, không có sự đối lập giữa quyền con người và quyền công dân
trong quy định của các nước. khó có thể phân định một cách thật sự rạch ròi
quyền con người, quyền công dân theo quan điểm quyền con người là quyền tự
nhiên, quyền công dân là do pháp luật quy định; hay quyền con người là do luật
quốc tế quy định, quyền công dân là do pháp luật quốc gia quy định.
c. Về mặt căn cứ phát sinh:
- Căn cứ phát sinh về quyền con người: có hai trường phái cơ bản đưa ra
quan điểm trái ngược nhau:
+ Thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên thì cho rằng
quyền con người là những gì bẩm sinh vốn có mà mọi cá nhân khi sinh ra đều
được hưởng.
+ Thứ hai, theo học thuyết về pháp lí, trong đó quyền con người không
phải là bẩm sinh vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xây dựng
và pháp điển hóa thành các quy định pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống
văn hóa.
Qua đây có thể thấy được, theo thuyết tự nhiên quyền con người có tính
thống nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm thì quyền con người theo thuyết
pháp lý lại mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa chính trị. Mặc dù
vậy nhưng không thể phủ nhận bất cứ học thuyết nào, bởi lẽ trong khi về hình
thức hầu hết các văn kiện pháp luật đều thể hiện quyền con người dưới hình
thức pháp lí thì trong tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con năm1948 và một
người văn kiện pháp luật ở một số quốc gia quyền con người được khẳng định
một cách rõ ràng là quyền tự nhiên vốn có không thể chuyển nhượng.
5



- Căn cứ phát sinh quyền công dân:
Khác với quyền con người, căn cứ phát sinh của quyền công dân là dựa
trên cơ sở quốc tịch.Tuy nhiên cách xác định quốc tịch của mỗi quốc gia có sự
khác nhau. Có quốc gia xác định quốc tịch theo huyết thống có quốc gia lại xác
định theo nới sinh.Như vậy để trở thành công dân của một nước cần phải đáp
ứng được đầy đủ các điều kiện do pháp luật nước đó quy định.. Quyền công dân
xuất phát từ quyền con người – giá trị trị được thừa nhận chung của nhân loại
nhưng được nâng lên thành quyền của công dân và được quy định trong hiến
pháp của quốc gia được thừa nhận chung của nhân loại nhưng được nâng lên
thành quyền của công dân và được quy định trong hiến pháp của quốc gia.
d. Về tính chất:
- Quyền con người mang tính độc lập,tính phổ biến, phổ quát và có những
giá trị chung đối với toàn thể nhân loại: Điều 50 Hiến pháp 1992 nước ta ghi
nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng , thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật.”
- Quyền công dân mang tính quốc gia: Để trở thành công dân của một nước,
các cá nhân bao giờ cũng phải có quốc tịch của nước đó. Tư cách công dân
mang đến cho cá nhân một địa vị pháp lý đặc biệt trong quan hệ với nước mà
họ mang quốc tịch. Dựa trên những điều kiện cụ thể của mình mà nhà nước quy
định cho công dân những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định.
Nhưng bất luận thế nào thì các quyền và nghĩa vụ này cũng nói lên một điều
rằng, quyền công dân cũng như quyền con người đã được ghi nhận và bảo đảm
như thế nào, tiến bộ hay lạc hậu.
Nội hàm của khái niệm quyền con người rộng hơn khái niệm quyền công
dân, hay nói cách khác, quyền công dân không thể bao quát hết được quyền con
người quyền con người là nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi
6



ích cùng với nghĩa vụ của con người được thể chế hoá trong các quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Còn quyền công dân phản ánh, thể
hiện là quyền con người, là những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định
và được nhà nước đó bảo đảm thực hiện bằng pháp luật dựa trên mối liên hệ
pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể. Dựa trên
những điều kiện cụ thể của mình mà nhà nước quy định cho công dân những
quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định.
Quyền bình đẳng giữa nam giới và nữ giới cũng thể hiện rõ trong số lượng
đại biểu nữ tham gia Quốc hội ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng.
(Ví dụ, số đại biểu nữ trong Quốc hội khoá I chiếm 2.5%; khoá II: 13.5%; khoá
VIII: 18%; khoá IX: 18.84%; khoá X: 26.22% và khoá XI là 27.31%)
e. Về cơ chế đảm bảo:
- Cơ chế đảm bảo quyền con người: Cơ chế bảo đảm là sự vận hành các
thiết chế quốc gia và quốc tế nhằm đảm bảo việc tôn trọng, thực hiện và bảo vệ
quyền con người trên thực tế. Ngoài cơ chế chung như các ngành luật khác
(theo quy định từ điều 39-42 hiến chương LHQ) Luật quốc tế về quyền con
người có một hệ thống các cơ chế bảo đảm việc tôn trọng, thực hiện và bảo vệ
quyền con người khá rộng, từ cơ chế có tính toàn cầu, tính khu vực, quốc gia.
Bên cạnh cơ chế bảo đảm của Liên hợp quốc với hình thức thực hiện là báo cáo
quốc gia thành viên, tại các khu vực cũng đã ghi nhận vai trò của cơ chế bảo
đảm quyền con người, ví dụ tại châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi. Không chỉ duy trì
cơ chế bảo đảm bằng báo cáo quốc gia trong khuôn khổ Hội đồng nhân quyền
UPR. Cơ quan Thanh tra Quốc Hội với chức năng chủ yếu là giám sát sự công
bằng và hợp pháp của bộ máy hành chính công. Không chỉ giải quyết các vụ
việc khi được yêu cầu, giống như các ủy ban quyền con người quốc gia, ở nhiều
nước, cơ quan này còn có thẩm quyền chủ động tiến hành điều tra những vi
phạm quyền con người trên phạm vi rộng hoặc thu hút sự quan tâm lớn của
7



công chúng. Thêm vào đó, cơ quan này chủ yếu tập trung vào những vi phạm
quyền con người của các cơ quan và viên chức nhà nước, trong khi các ủy ban
quyền con người quốc gia quan tâm cả đến cả các vi phạm quyền con người của
các cá nhân và chủ thể tư nhân. Ngoài ra, còn có một số cơ quan khác cũng có
vai trò bảo vệ quyền con người như: Ủy ban quốc gia về trẻ em, hội phụ nữ, Ủy
ban dân tộc....
- Khác so với nhân quyền, cơ chế đảm bảo dân quyền hẹp hơn. Quyền
công dân bó hẹp trong mối quan hệ của một Nhà nước với cá nhân, được ghi
nhận trong văn bản pháp lý cao nhất. Mọi cá nhân của một nước mang quốc tịch
của nước đó đồng thời là chủ thể của quyền con người và quyền công dân. Việc
thực hiện quyền công dân hay có thể nói là quy định về quyền công dân tại các
quốc gia khác nhau thì khác nhau bởi nó phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ
phát triển kinh tế, xã hội.
III. HIẾN PHÁP VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI , QUYỀN
CÔNG DÂN:
Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp đầu tiên cụ thể hóa các quyền con
người, nội dung của Hiến pháp được xuyên suốt bởi quan điểm đã được ghi ở
Điều 1: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Lần đầu tiên thừa nhận thuật ngữ “quyền con người” trong Hiến pháp
(Hiến pháp năm 1946, 1959 và Hiến pháp năm 1980 đều đồng nhất quyền con
người với quyền công dân). Hiến pháp năm 1992 với kỹ thuật lập pháp chuẩn
xác hơn. Ngôn ngữ thể hiện chặt chẽ, phản ánh đúng hiện thực khách quan, bỏ
đi một số câu chữ mang tính nhân văn nhưng không phù hợp với thực tế.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, Hiến pháp 1992 đã đánh dấu một
bước phát triển mới trong nhận thức về quyền con người và quyền công dân,
8



đồng thời xác lập được những nguyên tắc cơ bản về quyền con người, quyền
công dân làm cơ sở cho việc xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền công dân trên thực tế. Tuy nhiên, sau 20 năm thực hiện các quy
định của Hiến pháp năm 1992 về quyền con người và quyền công dân đã bộc lộ
một số hạn chế như: chưa làm rõ và tách bạch giữa quyền con người và quyền
công dân, giữa quyền và nghĩa vụ cơ bản với quyền và nghĩa vụ khác... cách
quy định các quyền trong Hiến pháp 1992 vẫn theo tư duy cũ, thể hiện tư tưởng,
“Nhà nước ban phát quyền” cho dân. Điều này biểu hiện ở chỗ rất nhiều quyền
trong Chương V Hiến pháp 1992 như tại các Điều 51, 53, 54, 56 – 58… được
quy định dưới dạng Nhà nước “quyết định”, “trao quyền cho” công dân, chứ
không phải công dân được hưởng các quyền ấy một cách đương nhiên. “Cách
quy định đó tiềm ẩn nguy cơ về sự tùy tiện của các cơ quan nhà nước cắt xén,
giảm bớt hay xóa bỏ các quyền này bất cứ khi nào Nhà nước muốn. Hiến pháp
1992 cũng còn nhiều quy định về quyền con người chưa gắn với trách nhiệm
của Nhà nước; hoặc có những nghĩa vụ của công dân chưa gắn với quyền hạn
của Nhà nước; một số quy định về quyền con người, quyền công dân chưa phản
ánh đúng bản chất và ý nghĩa của mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước...
Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về chế định quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân:
- Kiến nghị về phương thức sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về chế định
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Kiến nghị về cơ cấu và nội dung của Chương Quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, bổ sung.

KẾT LUẬN

9



Như vậy, quyền con người và quyền công dân là một chế định quan trọng
và là nội dung cơ bản của các bản Hiến pháp trên thế giới nói chung, Hiến pháp
Việt Nam nói riêng. Trong một xã hội dân chủ, quyền con người ở trong quyền
công dân, quyền công dân phải thể hiện đầy đủ quyền con người . Tuy là những
khái niệm không thể đồng nhất với nhau, nhưng quyền con người và quyền
công dân lại là các khái niệm có sự thống nhất. ghi nhận quyền con người và
bảo vệ quyền ấy là mục đích cũng là nhiệm vụ của bất cứ Hiến pháp nào một
khi nó được thừa nhận là Hiến pháp văn minh. Nói cách khác tất cả các vấn đề
của Hiến pháp từ khẳng định bản chất nhà nước đến việc quy định tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước đều phải xuất phát và xoay quanh vấn đề bảo đảm và
bảo vệ quyền con người.
Cho đến nay, nhận thức của đời sống xã hội cho thấy cần phải cởi mở hơn
trong các quy định và thực hiện quyền con người, quyền công dân. Một bộ phận
không nhỏ người dân Việt Nam “…sinh ra, rồi chết đi mà không hề biết rằng
mình là chủ nhân của các quyền con người…” (Wolfgang Benedek). Vấn đề
giáo dục quyền con người, quyền công dân đã được Liên Hợp Quốc, các nhà
khoa học pháp lí nước ta và các nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Vì vây,
nghiên cứu giáo dục về quyền con người và quyền công dân là một vấn đề bức
thiết mà nhà nước ta phải đặt ra để công dân có thể thực hiện đầy đủ quyền của
mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10


1. Quyền con người trong thế giới hiện đại (nghiên cứu và thông tin)
Phạm Khiêm Ích- Hoàng Văn Hảo
2. Quyền lực nhà nước và quyền công dân. Ts.Đinh Văn Mậu (Chủ biên).

Nhà xuất bản Tư pháp.
3. Hỏi đáp về quyền con người.Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội
4. Giáo Trình Lý Luận Và Pháp Luật Về Quyền Con Người. Khoa Luật –
ĐHQG Hà Nội.
5. Tìm cơ chế bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân trong sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
http://moj.gov.vn/hienphap1992/News/Lists/tintuchoatdong/View_Detail.as
px?ItemID=5272
6. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Tính hiện thực và cơ chế bảo đảm quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=253348

11


BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1
Môn: Luật Hiến Pháp Việt Nam
Đề bài số 7: So sánh quyền con người và quyền công dân
MỤC LỤC

Lời mở đầu ………………………………………………………………..1
Nội dung …………………………………………………………………. 2
Phần I: Khái niệm quyền con người và quyền công dân……………... 2
Phần II: So sánh quyền con người và quyền công dân………………..3
1. Sự giống nhau…………………………………………… 3
2. Sự khác nhau …………………………………………….3
a. Về mặt chủ thể………………………………………..3
b. Về cơ sở pháp lí ……………………………………...4
c. Về căn cứ phát sinh …………………………………..5
d. Về tính chất …………………………………………..6

e. Về cơ chế đảm bảo……………………………………7
Phần III: Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền……….8
công dân.
Kết luận………………………………………………………………….. 10
12


Danh mục tài liệu tham khảo …………………………………………….11

13



PHÂN BIỆT QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN

-

Vấn đề về quyền con người và quyền công dân luôn là mối quan tâm của toàn nhân loại ở từng thời kỳ phát triển của nó, bằng chứng là các bản tuyên ngôn của các quốc gia phát triển nhất trên thế giới như Mỹ, Pháp đều đề cập đến vấn đề này.

Bạn đang xem: Phân biệt quyền con người và quyền công dân

Những nội dung liên quan:

Quyền con người lần đầu tiên được trang trọng ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm hại được ,trong những quyền đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và công dân quyền nổi tiếng của nước Pháp năm 1971 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi.” Quyền con người được luật pháp quốc tế bảo vệ .

Quyền công dân cũng được mọi công dân của mỗi nước quan tâm và được nhà nước bảo vệ, mà cụ thể ở Việt Nam là quyền và nghĩa vụ của công dân được thể hiện trong bốn bản Hiến pháp và ngày càng rõ nét.

Thêm vào đó, quyền con ngườiquyền công dân là những vấn đề có lịch sử lâu đời cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận, đều gắn liền và là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng tư sản, phản ánh quá trình nhân loại tự giải phóng mình.

Dựa vào hiến pháp 2013 hãy so sánh quyền con người và quyền công dân