Những cái hút nước trên sông Đà được tác giả so sánh với hình ảnh nào

Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà hay nhất

  • Dàn ý vẻ đẹp hung bạo con Sông Đà
    • Dàn ý số 1
    • Dàn ý số 2
  • Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 1
  • Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 2
  • Phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 3
  • Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 4
  • Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 5
  • Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 6
  • Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 7
  • Phân tích con sông Đà hung bạo - Mẫu 8
  • Phân tích con sông Đà hung bạo - Mẫu 9

Dàn ý vẻ đẹp hung bạo con Sông Đà

Dàn ý số 1

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề

2. Thân bài

- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông ...”.

- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,

- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

  • Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
  • Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
  • Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Dàn ý số 2

a) Mở bài:

- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.

- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.

b) Thân bài:

* Phân tích tính cách hung bạo của con sông Đà:

- Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:

  • "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
  • "Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách"
  • "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"

-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

- Gió trên sông Đà: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm" -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.

- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên", "những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.

- Âm thanh thác nước sông Đà:

  • Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
  • Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa", "rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng" -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.

- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá" mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

  • Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền".
  • Trùng vi thạch trận thứ II: "Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn"
  • Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam.

c) Kết bài:

Cảm nhận của em về tính cách hung bạo của sông Đà.

So sánh sông Đà và sông Hương hay nhất

  • Dàn ý So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương
  • So sánh sông Đà và sông Hương - Mẫu 1
  • So sánh sông Đà và sông Hương - Mẫu 2
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 3
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 4
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 5
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 6
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 7
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 8
  • So sánh hình tượng sông Đà và sông Hương - Mẫu 9

Đề bài: So sánh hình tượng sông Hương trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.

Những so sánh liên tưởng độc đáo về hình tượng sông đà

  • doc
  • 10 trang
Những so sánh liên tưởng độc đáo về hình
tượng Sông Đà
trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của
Nguyễn Tuân
Giáo viên: Phạm Thị
Thanh Huyền
Trường THPT chuyên Lê
Quý Đôn- tỉnh Lai Châu
So sánh liên tưởng vốn là một biện pháp quen
thuộc của các nhà văn, tuy nhiên liên tưởng so sánh
phải mới mẻ, bất ngờ và giúp người đọc hình dung ra
sự vật, sự việc, nhận ra ngay thần thái của chúng một
cách rõ nét, độc đáo thì mới có giá trị. Một trong
những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân là nhà văn luôn tìm đến những cảm
giác mới lạ, những cái phi thường, cái tuyệt mĩ khi
miêu tả sự vật, hiện tượng hay con người. Để đạt

được điều đó, Nguyễn Tuân luôn tích luỹ kho từ
vựng độc đáo với các biện pháp tu từ được nhà văn
vận dụng linh hoạt. Con sông Đà dưới ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Tuân hiện lên với hai nét tính cách
dường như đối lập nhau: Trữ tình và hung bạo. Hai
nét tính cách này được nhà văn sử dụng nhiều so sánh
liên tưởng . Mỗi so sánh chứa đựng một góc nhìn độc
đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng
thẩm mĩ của mình.
Con sông Đà hung bạo mang diện mạo và tâm
địa một thứ kẻ thù số một của con người hiện lên thật
ấn tượng, Sự hung bạo của Sông Đà được thể hiện
trước hết ở vách đá. Sông Đà cã nh÷ng qu·ng s«ng
hÑp, s©u tèi vµ l¹nh “ mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng
ngọ mới có mặt trời có chỗ vách đá thành chẹt lòng
sông như một cái yết hầu”. Cách so sánh, liên tưởng
bất ngờ mà chính xác đã giúp người đọc hình dung cụ
thể độ cao, hẹp, sâu của vách đá Sông Đà. Nguyễn
Tuân tiếp tục khắc sâu ấn tượng độ cao của vách đá,
sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của

dòng chảy bằng một liên tưởng độc đáo, bất ngờ và
thú vị khi nhà văn so sánh cảm giác của con người
giữa thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ với khoảng cách
của đời sống chốn thị thành điều này khiến cho
những ai chưa có dịp được trải nghiệm cảm giác ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy có thể cảm nhận điều
đó trong một hiện thực rất gần với mình.“ Ngồi trong
khoang đò mà đi qua quãng ấy đang mùa hè cũng
thấy lạnh cảm thấy như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng
thứ mấy vừa tắt phụt điện”.
Những cái hút nước sông Đà làm chóng mặt,
sởn gai ốc người ta cũng do phép so sánh liên tưởng
độc đáo của Nguyễn Tuân mang lại “ những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để
chuẩn bị làm móng cầu.” ,“nước ở đây thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc” có lúc “những cái giếng
sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Âm
thanh được cụ thể hóa cao độ, nó làm ta hình dung
đến sự giận dữ và nguy hiểm tột độ, đặc biệt nhờ

phép so sánh độc đáo ấy ta không chỉ “nghe” được
âm điệu, cường điệu mà cả độ vang của tiếng hút
nước. Trong lối so sánh của Nguyễn Tuân, ta cũng
bắt gặp những phép so sánh chứa đầy ẩn ý. Nó như
một dự cảm lo sợ “trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang quay lừ lừ như cánh quạ đàn”. Ngoài sự hung
bạo dữ dội những hút nước ấy còn ẩn họa một sự chết
chóc đáng sợ “cánh quạ đàn”. Đó cũng chính là một
lời cảnh báo để những thuyền đi qua phải trèo thật
nhanh “y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút
qua một quãng đường”. Ngoài việc sử dụng các phép
so sánh thì ở đoạn miêu tả những cái hút nước trên
sông, nhà văn còn vận dụng rất linh hoạt những liên
tưởng độc đáo. Đó là khi nghĩ đến “một anh quay
phim táo tợn nào dám ngồi vào một chiếc thuyền
thúng rồi cho cả mình và máy quay xuống cái hút
sông Đà ấy”. Sự liên tưởng dường như được chuyển
thành một thước phim điện ảnh. Vừa đẹp một cách
hùng vĩ lại vừa có cái giật gân táo bạo.

Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn
Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải
hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm
thanh. Thực sự đến đây, Nguyễn Tuân mới hòa nhịp
đúng vào khúc “độc tấu” ngôn từ và hình ảnh. Trước
giờ ta bắt gặp không ít những hình ảnh so sánh và
độc đáo giữa hai sự vật hiện tượng tương đối “nắng
hạ rũ rượi, mệt nhoài sau quãng rừng thưa như từng
hột mưa kiệt sức trên thảm lá dày” ( Nhật kí đào hoa
– Lê Như ). Nhưng đến Nguyễn Tuân, những phép so
sánh lên đến cực điểm. Được làm nên từ hàng loạt
phép so sánh liên hoàn dồn dập, tiếng nước thác hiện
lên như một con người với đủ cung bậc tâm trạng
“nghe như oán trách gì rồi lại như là van xin, rồi lại
như khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo.” Các câu so
sánh “tới tấp” đẩy cái dữ dội lên đỉnh điểm, dùng các
cung bậc của con người tả thác để dội lại cái vang
vọng đầy cảm xúc ấy cho người đọc. Bước đệm ấy đã
phát huy tác dụng không ngờ, nó đẩy cái cuồng nộ
của thác nước lên đến nghẹt thở, cho người đọc cảm

giác lạc vào trận địa dữ dội của sông nước và đá thác.
Chính sự táo bạo trong miêu tả dám lấy lửa tả nước,
lấy rừng tả sông – phép so sánh đối lập cao độ. “Nó
rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa một rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”. Ta có cảm giác luồng nước thác
dữ dội táp vào mình qua thính giác bỏng rát, tất cả
như tóe ra một sự giận dữ không kiềm chế ,vừa hùng
vĩ vừa đầy hiểm nguy thách thức. Cách so sánh nhân
hóa đã cho ta một khung cảnh Sông Đà như con thủy
quái với sức công phá ghê gớm báo hiệu một trận
chiến giằng co căng thẳng sắp diễn ra.
Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân sông Đà
không chỉ hung bạo mà nó còn rất trữ tình.Vẻ mơ
màng, thơ mộng, kiều lệ của sông đạt đến độ tuyệt
vời cũng nhờ những so sánh hay. Từ trên cao nhìn
xuống Nguyễn Tuân được chiêm ngưỡng toàn cảnh
dòng sông trong dáng hình mềm mại uốn lượn tự
nhiên của nó. Nguyễn Tuân đã so sánh dòng Sông Đà

với sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Sự so sánh giản đơn
nhưng chính xác độc đáo nên tạo được sự bất ngờ thú
vị. Sông Đà đẹp thơ mộng trước hết ở vẻ đẹp tự nhiên
ấy. Đặc biệt hình dáng của con sông được nhà văn
miêu tả qua so sánh rất tài hoa “con Sông Đà tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân”. Nếu áng tóc là sự vật cụ thể thì áng tóc
trữ tình lại là một khái niệm trừu tượng. Tác giả đã
dùng hình ảnh áng tóc trữ tình để nói lên vẻ đẹp thơ
mộng của dòng sông. Nhìn con sông Đà tuôn dài, nhà
văn có cảm tưởng đó như một áng tóc. Phép so sánh
độc đáo này đã tôn lên vẻ đẹp mềm mại, thơ mộng và
hiền hoà của dòng sông. Dòng sông ấy hiền hoà, thơ
mộng gợi bao cảm hứng trữ tình, cảm hứng thơ với
các du khách. Tả màu nước Sông Đà ta lại bắt gặp
những so sánh rất thú vị và chính xác“ Mùa xuân
dòng sông xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không
xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”.

“Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở
một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.Sự so
sánh về màu sắc làm cho con sông có vẻ đẹp riêng.
Bằng sự chiêm nghiệm tâm lý con người, Nguyễn
Tuân có cách so sánh thú vị miêu tả vẻ đẹp của dòng
sông“Chao ôi, trông con sông như thấy nắng giòn
tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”. So sánh sông Đà với một cố nhân vừa thể
hiện sự gắn bó của nhà văn với dòng sông vừa lột tả
được hết cái tính tình “lắm bệnh lắm chứng” của
sông Đà.
Cảnh ven sông Đà quãng hạ lưu lặng tờ đẹp một
vẻ đẹp nguyên khôi được truyền thần bằng hai câu
văn so sánh tài hoa“Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa”. Nhà văn đã đem so sánh một đặc tính đã
khá trừu tượng (hoang dại, hồn nhiên) bằng những
khái niệm còn trừu tượng hơn nữa bằng cách không
gian hoá thời gian (một bờ tiền sử), nội tâm hoá sự
kiện (một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa), gợi mở những

liên tưởng cập bờ siêu cảm giác! Với liên tưởng của
mình , Nguyễn Tuân vẽ ra trước mắt bạn đọc một bức
tranh sinh động đến không ngờ. Một vẻ non tơ của
nương ngô nhú lên mấy lá non đầu mùa, một chú
hươu tha thẩn và một cuộc nói chuyện ngắn ngủi
trong tưởng tượng để cùng lắng đợi một “tiếng còi
sương”.
Có thể nói, với cách tạo ra những so sánh
liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã miêu tả thành
công nhân vật sông Đà trong tác phẩm với hai nét
tính cách dường như trái ngược nhau. Mỗi phép so
sánh, nhà văn đem đến cho người đọc những cảm
giác bất ngờ thú vị. Chỉ xem xét những liên tưởng so
sánh về hình tượng Sông Đà trong một đoạn trích
ngắn, chúng ta đã phần nào cảm nhận được tài hoa,
tinh tế của Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân “Tiếng
Việt như một khối ru bích, dưới bàn tay của người
nghệ sĩ ngôn từ họ Nguyễn, khối vuông ấy biến hóa
liên tục và đầy màu sắc-sắc màu Nguyễn Tuân” (Đỗ
Ngọc Thống)

Tải về bản full

1. SOẠN BÀI NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ -NGUYỄN TUÂN, ngắn 1

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Tuân sinh ngày 10 – 7 – 1910, mất ngày 28 – 7 – 1987, là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Tên ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.
- Ông quê ở xã Nhân Mục, thôn Thượng Đình, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
- Năm 1929, khi đang học đến cuối bậc trung học cơ sở thì Nguyễn Tuân bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khoá phản đối các giáo viên Pháp nói xấu người Việt. Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì “xê dịch” qua biên giới không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
- Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…
- Ông còn là một diễn viên kịch nói và là diễn viên điện ảnh. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
- Nguyễn Tuân là nhà văn thực sự quý trọng nghề viết văn. Đối với ông, nghệ thuật là một sự “khổ hạnh” đúng nghĩa.
- Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc đáo và đầy tài hoa. Năm 1996 ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).

2. Sự nghiệp văn học.
- Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tuỳ bút, bút kí có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941)...
– Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
- Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút kí Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), một số tập kí chống Mĩ (1965 – 1975) và nhiều bài tuỳ bút về cảnh sắc và hương vị đất nước.

3. Phong cách.
- Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”.
- Mỗi trang viết của ông đều muốn thể hiện sự tài hoa uyên bác. Mọi sự vật, hiện tượng được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
- Ông thường đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Văn Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
- Nguyễn Tuân học theo “chủ nghĩa xê dịch”. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thẳm, thác ghềnh dữ dội...
- Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
- Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hoá nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả quần chúng nhân dân. Chất giọng khinh bạc vẫn được duy trì và chủ yếu để dành cho kẻ thù của dân tộc hay những khía cạnh tiêu cực của xã hội.

II. Tác phẩm Người lái đò sông Đà
1. Xuất xứ
- Là một trong số 15 bài được in trong tập tuỳ bút Sông Đà, xuất bản năm 1960. Đây là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
- Tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân. Nó thể hiện “độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật” (Nguyễn Đăng Mạnh).

2. Bố cục
Đoạn 1: “... Ông lái đò Lai Châu... với nhà đò”: Giới thiệu ông lái đò sông Đà.
Đoạn 2: “Trên sông Đà... dòng nước sông Đà”; Hình ảnh con sông Đà và những cuộc vượt thác của ông lái đò.
Đoạn 3: “Tôi có bay tạt ngang qua... ở Tây Bắc”: Con sông Đà hiền hoà và cuộc sống tươi vui ở ven bờ.

3. Những giá trị nội dung, nghệ thuật
a) Hình ảnh sông Đà: Con sóng Tây Bắc hung bạo
- Dòng sông rất dữ dội (bờ đá dựng vách thành, chẹt lòng sông Đà khiến nó hẹp lại, dòng sông như một cái hang, tối, sâu và lạnh).
- Con sông luôn hung hăng, ưa gây sự: + Nó luôn chờ chực và giáng tại họa bất kì lúc nào vào người lái đò sông Đà: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè ”
+ Dữ dội không chỉ ở trong lòng mà cả trên mặt sông: Mặt nước hò la vang dậy “ùa vào” như thế “quân liều mạng”, “đánh những đòn hiểm độc nhất”,...
- Tính cách hung bạo của sông Đà được biểu hiện ở những dòng thác, những luồng cửa tử giăng vây, chặn đánh, tấn công tới tấp ồ ạt vào người lái đò.
- Quả là chẳng khác gì một loài thuỷ quái khổng lồ vừa nham hiểm và hung dữ “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” của con người.
Con sông Tây Bắc trữ tình: – Toàn cảnh con sống được ví như “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”...
- Sông Đà có những “luồng êm” “đằm dịu” muôn đời “sông nước thanh bình”.
- Sắc nước sông Đà mang vẻ đẹp đặc trưng: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...”.
- Sông Đà mang vẻ đẹp nguyên sơ: + Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ, bây hươu an nhiên ngốn cỏ gianh đẫm sương, cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sống bụng trắng như bạc rơi thoi.
+ Có đoạn, có khúc sông “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử – Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
- Con sông ấy gợi nhớ cố nhân, gợi cảm xúc đặc biệt cho mỗi người khi tiếp xúc với tính cách trữ tình của nó: nó có chất Đường thi cổ điển, cái lặng lờ của nó gợi nhớ một quá khứ xa xăm từ thời Lí, Trần, Lê, nó “lững lờ nhớ thương” và “đang lắng tai nghe” với dáng vẻ rất dịu dàng, thầm kín.
b) Nhân vật người lái đò Sông Đà.
- Người lái đò có một ngoại hình và những tố chất đặc biệt: + Tuổi đã 70 mà trông rất tráng kiện: thân hình cao to, “gọn quánh như chất sừng, chất mun”.
+ Tiếng nói át cả sóng nước. Ngực, vai có những vết chai như những củ nâu mà Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “huân chương lao động siêu hạng”.
- Hơn 10 năm cùng con thuyền xuôi ngược sông Đà, ông thông thuộc địa hình dòng sông như thuộc bàn tay mình.
- Là một người tài trí: sẵn sàng đối mặt với thần sông, thần đá, chinh phục mọi cửa tử cửa sinh.
- Dũng cảm đưa con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép”, như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”... làm cho tên tướng đá “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng...”. Có lúc bị luồng nước đánh đòn ác hiểm nhưng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo điều khiển con thuyền thoát hiểm.
- Rất “tài tử”: Sau một ngày dài đọ trí thi tài với con thuỷ quái, ông ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, nói về cá anh vũ, những hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng.
- Lúc ngừng chèo, ông chẳng hề bận tâm về chuyện vượt thác, chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn.
- Nhân vật người lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Người lái đò Sông Đà thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác, độc đáo trong thể tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Nhiều biện pháp đã được sử dụng tài tình như: nhân hoá, so sánh, những ẩn dụ, từ tượng thanh, từ tượng hình,... Tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà bình luận thể thao, điện ảnh... được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà.

B. TỰ LUẬN

1. Hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như thế nào?
Gợi ý làm bài
- Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ con sông Đà thơ mộng, với sức sống tiềm tàng, vừa dữ dội, mãnh liệt, vừa trữ tình, lãng mạn. Trên dòng sông hùng vĩ ấy, người lái đò hiện lên sừng sững, hiên ngang, đẹp như một bức tranh huyền thoại. Đấy là con người tồn tại trong tư thế chiến đấu: “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Hình tượng người lái đò đã mang đậm phong cách Nguyễn Tuân – người say mê và suốt đời đi tìm cái đẹp.
- Lai lịch của người lái đò: Qua chuyện trò với tác giả, ta biết người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm.
- Ngoại hình: Dấu ấn cuộc đời sống nước in đậm ở ngoại hình ông lão:
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào.
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng.
+ Giọng nói ko ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông.
+ Thị lực vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
- Ngoại hình người lái đồ hiện lên sắc nét nhất là trong cuộc chiến đấu với thạch trận trên sông: “Nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đồ ghì cương lái, bám chắc lấy luông nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về cửa đá ấy”.
- Nguyễn Tuân qua những dòng miêu tả ngoại diện và lại lịch người lái đò là không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi tài năng, ý chí, lòng dũng cảm, cũng như sự gắn bó, yêu quý nghề của ông lão. Trong câu văn của mình, Nguyễn Tuân luôn gửi gắm nhiều điều muốn nói. Tất cả nằm sâu dưới tầng chìm của tảng băng trôi.
- Tính cách người lái đò: Nổi bật nhất là sự từng trải và điêu luyện về tay nghề.
+ Người lái đò là một linh hồn muôn thuở của Sông Đà hay nói cách khác Sông Đà đã trở thành máu thịt của ông. Ông làm nghề đò đã mười năm liền, từng ngược hơn một trăm lần, tự tay ông giữ lái độ sáu chục lần.
+ Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện ở chỗ nắm thuộc lòng mọi ghềnh thác, mọi chỗ ngoặt, chỗ nông sâu của dòng sông. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân rất chi li, tỉ mỉ mọi ngóc ngách của dòng Sông Đà bảy mươi ba con thác. Phải chi li, như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kì lạ ở ông lão lái đò. Đồng thời, đây cũng là cách Nguyễn Tuân bày tỏ nỗi thán phục của chính mình một con người tài hoa trước một con người tài hoa, giỏi tay nghề, như được sinh ra từ những con sóng dữ nơi thác nước Sông Đà.
- Lòng dũng cảm: Để chinh phục được Sông Đà, không chỉ dựa vào sự từng trải, tay nghề vững vàng mà người lái đò còn phải có lòng dũng cảm, mưu trí và ý chí quyết tâm cao. Nhà văn đặt nhân vật vào ngay hoàn cảnh thử thách khốc liệt, nơi đó, tất cả những phẩm chất tiềm tàng được bộc lộ, nếu không thì nhân vật sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Hành trình của ông lão lái đò trên Sông Đà là được ví như là hành trình đi đến với cuộc chiến khốc liệt, một cuộc thuỷ chiến không cân sức giữa con người trước thiên nhiên hùng vĩ đây nguy hiểm chết người. Cuộc chiến đó diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương vô cùng dũng mãnh: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bên nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
- Thạch trận Sông Đà đã bày sẵn. Mỗi hòn đá trên sông đều có một nhiệm vụ là huỷ diệt bất kì ai đi vào lãnh địa mình. Thạch trận gồm có ba hàng, bày bố chặt chẽ hợp lí và sẵn sàng hỗ trợ nhau... Nếu người lái đó không vững tay lái thì ngay lập tức bị chúng vùi xuống dòng sâu.
- Được nhân cách hoá thành một tay đô vật lão luyện, Sông Đà bước vào sới vật với người lái đò. Chính xác hơn là người lái chủ động khiêu chiến. Khi Sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc là bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng đặng lật ngửa đối thủ ra “giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”, tay lái của ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí lão lái con thuyền vượt qua ghềnh thác.
- Khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén cơn đau, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”.
- Đã nắm chắc “binh pháp của thần sông thần đá”, đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, lối thoát duy nhất là xông thẳng vào chính cửa giữa: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lại được lượn được. Thế là hết thác”. Thạch trận hiểm nguy không ngăn nỗi người lái đò.
- Nghệ sĩ tài hoa: Hình ảnh ông lão lái đò được khắc hoạ như một nghệ sĩ tài hoa. Quan niệm của Nguyễn Tuân về tài hoa có nét đặc biệt. Ông không giới hạn vào giới nghệ sĩ mà mở rộng ra nhiều đối tượng. Bất kì ai thực hiện tốt công việc của mình một cách tinh vi và siêu phàm, bằng một tay nghề điêu luyện và bằng nỗ lực phi thường của cả tâm hồn thì người đó đều xứng danh là tài hoa nghệ sĩ. .
- Kĩ thuật vượt thác của ông lão lái đò được nâng lên thành nghệ thuật. Ông lão trở thành người nghệ sĩ tài hoa trên con thuyền vượt thác. Với người ngoài, đấy quả là một chiến công phi thường. Nhưng với ông lão, công việc vượt thác là nhiệm vụ là nghề mưu sinh. Vả lại trong đời ông đâu chỉ vượt thác một lần!
- Nét nghệ sĩ hào hoa ở người lái đò còn được thể hiện ở hành động ung dung bên bếp lửa sau khi trận đánh với Sông Đà kết thúc.
- Phong thái của ông lão ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: “Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
- Hành động của người lái đò tựa những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để khai sinh nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về thành quả lao động của mình. Nguyễn Tuân đưa ra lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo”.
- Phẩm chất anh hùng, tay nghề lão luyện của người lái đò là dễ thấy, những phẩm chất nghệ sĩ tài hoa ở người lái đò thì chỉ riêng Nguyễn Tuân thấy được mà thôi. Đây chính là tấm lòng trân trọng mà Nguyễn Tuân dành cho những người lao động chân chính. Phẩm chất anh hùng của con người không chỉ diễn ra trên mặt trận máu đổ đầu rơi mà còn thể hiện trong lao động. Nhờ lao động, nhờ niềm đam mê cháy bỏng của một tâm hồn yêu nghề, người lái đò đã viết nên thiên huyền thoại cho chính mình: Nghệ sĩ tài hoa trên thác nước.
– Nguyễn Tuân trong tác phẩm của mình thường xây dựng nhân vật chính diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Tuân khai thác cái tài hoa ở lớp nhà nho trong quá khứ. Sau cách mạng, cùng với những chuyển biến phi thường của dân tộc, đất nước, tư tưởng của Nguyễn Tuân cũng có nhiều thay đổi.
- Trong Người lái đò Sông Đà và nhiều tác phẩm khác được sáng tác khi nước nhà giành được độc lập, Nguyễn Tuân đã phát hiện và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống lao động hằng ngày của người dân.
- Ông lão lái đò không tên tuổi, hành nghề nơi xa xôi, hẻo lánh trên những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên hùng ca, ngợi ca con người bằng những tình cảm chân thành nhất, một con người lao động. Và cái đẹp toả sáng trong lao động sẽ là cái đẹp thiết thực, gắn với cái thiện và cái hữu ích. Cảm hứng ngợi ca đã góp phần đắc lực trong việc khắc tạo nên một hình tượng kì vĩ, đầy sức sống.

2. Hình tượng Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân được khắc họa như thế nào?
Gợi ý làm bài
- Sông Đà là nguồn mạch vô tận trong sáng tạo nghệ thuật. Đấy là con sông có “cá tính”: “Chúng thuỷ giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu” (Mọi con sông đều chảy theo hướng đông, chỉ có sông Đà theo hướng Bắc, Nguyễn Quang Bích).
- Vì vậy, Sông Đà trở thành dòng sông ánh sáng, của nhiều nguồn mạch sáng tạo cho thơ, nhạc, hoạ... Đến Nguyễn Tuân, bằng tài năng và phong cách độc đáo của mình, dòng sông ấy càng trở nên hấp dẫn, gợi cảm, làm đắm say hàng triệu con tim người đọc.
- Bằng nghệ thuật nhân cách hoá và vận dụng nhiều liên tưởng hấp dẫn, Sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân trở nên một “nhân vật” có diện mạo, có tâm lí với hai nết tính cách tiêu biểu là vừa hung dữ, vừa hết sức trữ tình: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.
- Con sông hung bạo: + Khi hung bạo, Sông Đà là “kẻ thù số một”, với sức mạnh sẵn có của mình, nó sẵn sàng cướp đi mạng sống con người. Tính chất hung bạo ấy ra đời trên cơ sở của sự hùng vĩ của dòng sông. Để khắc hoạ tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu.
+ Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.
+ Một đoạn sông khác ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, Sông Đà là cái hút nước “xoáy tít đáy”. “Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới dòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
+ Dữ dội nhất trên Sông Đà là ở những thác đá. Ban đầu là âm thanh, một sự cảm nhận từ xa. Đấy là thứ tiếng gào thét bằng trăm ngàn giọng khác nhau. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe doạ bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo”. Các chất giọng này không chỉ diễn tả sự đa dạng trong nỗi hung bạo của nó mà còn nhấn mạnh Sông Đà là một tạo vật có hồn.
- Về hung bạo, mưu mô, xảo quyệt, mánh khoé... của Sông Đà được đặc tả qua cuộc chiến với người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến của cái thạch trận trùng trùng hiểm trở, nhằm “ăn chết”, để “nhổm cả dậy để vồ” con thuyền đơn độc. Trận chiến có ba tuyến:
+ Tuyến một, thác đá mở ra năm của trận, bốn cửa tử, một cửa sinh cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn.
+ Tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn.
+ Tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng giữa dòng, vào luồng sinh để vượt thoát qua.
- Khắc hoạ vẻ hung dữ của Sông Đà, Nguyễn Tuân dùng những câu văn dài ngắn không đều nhau tạo nên sự gân guốc, góc cạnh, giàu tính tạo hình, kết hợp với những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập: “Mặt trước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”.
- Thường xuyên sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị. Ông mô tả những hòn đá “trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.
– Không chỉ là một vị tướng giỏi bày binh bố trận, đặc biệt tác giả còn ví Sông Đà giống như một tay đấu vật giỏi giang,... Những hình ảnh so sánh này gợi lại vốn văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Qua đó, Nguyễn Tuân bộc lộ tình cảm niềm tự hào lớn lao đối với tổ quốc tươi đẹp. Người đọc có thể nghe được trong đoạn văn ấy âm hưởng của những khúc ca hùng tráng ca ngợi sức mạnh tự nhiên thật hoang dại, cuồng nộ nhưng cũng hết sức tự do, hào phóng, kiêu hùng.
– Con sông trữ tình: Bằng nhãn quan của một cây bút lãng mạn bậc thầy, bao giờ Nguyễn Tuân cũng bố trí hình tượng của mình trong thế đối lập. Từ sự đối lập này, ông dễ dàng tạo nên được nét cá biệt cho diện mạo nhân vật. Vì lẽ đó, không chỉ Sông Đà đối lập với người lái đò mà ngay trong chính bản chất của mình Sông Đà chất chứa nhiều sự đối lập thú vị.
- Như chính tác giả quan niệm, bên cạnh tính cách hung bạo, Sông Đà lại rất trữ tình. Vẻ đẹp hùng tráng của nó gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người.
- Ở khía cạnh trữ tình, “con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo nương xuân”. Đấy là con sông yêu kiều, hiền hoà.
- Theo thời tiết từng mùa, Sông Đà hiện lên với những dáng vẻ khác nhau, đặc biệt là màu sắc. Không chỉ đẹp ở hình dáng, Sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, phải dày công quan sát mới thấy hết được vẻ đẹp có một không hai ấy: “Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”...
- Nét trữ tình bao hàm cả không khí hoang dã, tĩnh lặng. Tác giả đã viết những câu thật xuất thần: “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
- Không gian sống thấm đẫm chất thơ. Điểm tô cho bầu không khí lãng đãng thơ ấy, Nguyễn Tuân tả đàn hươu “cúi đầu ngón búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi xương, và cái “nắng tháng ba Đường thi” Giữa mùa hoa khói Dương Châu xuôi dòng (Yên ba tam nguyệt há Dương Châu), gợi tâm sự của bằng hữu tâm giao chớm gặp đã vội chia lìa. .
- “Sông Đà như một cố nhân”, trở thành tri âm tri kỉ muôn đời với nhà văn. Từ góc độ này, Sông Đà mang diện mạo của một thi sĩ đa tài, đa tình. Không còn chút tâm địa độc ác nào, mà chỉ thấy mối giao hoà thân ái giữa sông với người trong cảm thức của những cố nhân.
- Câu văn khắc hoạ dáng vóc trữ tình của Sông Đà trải dài, nhịp nhàng, cân đối, mang âm hưởng nhẹ nhàng, êm ái... Lòng người mênh mang theo dòng sông thơ mộng. Nhưng đâu đó trên những chặng dài lao mình ra biển, Sông Đà vẫn quặn đau với nhiều thác ghềnh hiểm trở.