So sánh giọng điệu của xuân diệu năm 2024

Xuân trong cảm thức của Xuân Diệu là Nguyên đán của tình yêu, là sự khai mở của tâm hồn con người. Nó mời gọi và hiến dâng, nồng nàn và say đắm. Nó tồn sinh như một giá trị vĩnh hằng. Nó là:

Xuân không mùa

“Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm,

Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu

Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.

Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng.

Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng;

Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,

Chim trên cành há mỏ hót ra thơ;

Xuân là lúc gió về không định trước.

Đông đang lạnh bỗng một hôm trở ngược,

Mây bay đi để hở một khung trời

Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi,

Như được nắm một bàn tay son trẻ…

Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé;

Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa;

Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa

Lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng.

Nếu lá úa trên cành bàng không rụng,

Mà hoa thưa ửng máu quá ngày thường;

Nếu vườn nào cây nhãn bỗng ra hương,

Là xuân đó. Tôi đợi chờ chi nữa?

*

Bình minh quá, mỗi khi tình lại hứa,

Xuân ơi xuân vĩnh viễn giữa lòng ta

Khi những em gặp gỡ giữa đường qua

Ngừng mắt lại, để trao cười, bỡ ngỡ.

Ấy là máu báo tin lòng sắp nở

Thêm một phen, tuy đã mấy lần tàn.

Ấy là hồn giăng rộng khắp không gian

Để đánh lưới những duyên hờ mới mẻ?

Ấy những cánh chuyển trong lòng nhẹ nhẹ

Nghe xôn xao rờn rợn đến hay hay…

Ấy là thư hồi hộp đón trong tay;

Ấy dư âm giọng nói đã lâu ngày

Một sớm tim bỗng dịu dàng đồng vọng…

Miễn trời sáng, mà lòng ta dợn sóng,

Thế là xuân. Hà tất đủ chim, hoa?

Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa,

Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng.”

Thơ vừa tả thực cảnh xuân lại vừa tượng trưng biểu cảm tình xuân lai láng. Thơ Xuân Diệu vốn đã nồng, viết về xuân, giọng điệu thơ càng trở nên tha thiết, đắm say.

Nụ cười xuân

"Giữa vườn inh ỏi tiếng chim vui

Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời

Sao buổi đầu xuân êm ái thế!

Cánh hồng kết những nụ cười tươi

Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao

Cây vàng rung nắng lá xôn xao

Gió thơm phơ phất bay vô ý

Đem đụng cành mai sát nhánh đào

Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều

Bên màu hoa mới thắm như kêu

Nỗi gì âu yếm qua không khí

Như thoảng đưa mùi hương mến yêu

Này lượt đầu tiên thiếu nữ nghe

Nhạc thầm lên tiếng hát say mê

Mùa xuân chín ửng trên đôi má

Xui khiến lòng ai thấy nặng nề…

Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người

Chưa từng hẹn đến – giữa xuân tươi

Cùng chàng trai trẻ xa xôi ấy

Thiếu nữ làm duyên, đứng mỉm cười".

Trong cảm thức của Xuân Diệu về mùa xuân, thì tình yêu và tuổi trẻ bao giờ cũng song hành với mùa xuân. Nó tồn tại như một thực thể của tâm hồn, tinh tế mà tha thiết, lắng sâu…

Chủ nghĩa lãng mạn đã xuất hiện lần đầu tiên trong văn chương là vào thế kỉ XIX qua những tác phẩm văn học Pháp, sau đó nó dần trở nên phổ biến hơn trên thế giới. Và theo thời gian, bằng những tác phẩm xuất sắc của mình, chủ nghĩa lãng mạn ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của nó đối với nền văn học nói chung.

Với văn học Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn thực sự mang dấu ấn đậm nét là ở phong trào Thơ mới 1930-1945. Chính trong giai đoạn này văn học Việt Nam có sự đổi mới, cách tân vô cùng kì diệu, có sự chiến đấu mãnh liệt giữa yếu tố cũ với yếu tố mới, và kết quả là hàng loạt những tác giả, tác phẩm nổi tiếng đã ra đời, đem đến một hơi thở, một tiếng nói rất riêng, một “luồng gió mới lạ” cho nền văn học nước nhà.

Nhắc đến chủ nghĩa lãng mạn, đến phong trào Thơ mới, người ta không thể không nhắc đến Xuân Diệu,“nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, một nhà thơ đã tỏa bóng xuống nửa thế kỉ thơ hiện đại việt nam, góp phần đưa phong trào này lên đến giai đoạn đỉnh cao của nó.

  1. CUỘC ĐỜI:
  2. Tiểu sử:

Xuân Diệu (1916 – 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha. Thân sinh của thi sĩ là một nhà nho, quê ở xã Trảo Nha (nay là xã Đại Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đồ Nghệ vào dạy học ở tỉnh Bình Định, lấy bà hai người vạn Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước và sinh ra Xuân Diệu.

Xuân Diệu lớn lên ở Quy Nhơn, học hết bậc Thành chung thì ra Hà Nội, rồi vào Huế học tiếp. Tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức một thời gian ở Sở Đoan Mĩ Tho, nhưng chủ yếu hoạt động văn học.

Xuân Diệu bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 1935. Ông nổi tiếng như một “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) và đầy tài năng từ năm 1937, nhất là từ khi xuất bản Thơ thơ (1938) và Phấn thông vàng (1939).

Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh từ trước Cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó, cuộc đời ông gắn bó với cách mạng và nền văn học cách mạng. Ông từng là đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam nhiều khóa, v.v… Tất nhiên, đóng góp to lớn nhất của Xuân Diệu đối với đất nước vẫn là với tư cách nhà thơ, nhà văn. Ông đã để lại ngót năm mươi tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Xuân Diệu xứng đáng được xem là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Năm 1983, ông được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 1996.

  1. Con người:

“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong – Ông đồ Nghệ đeo khăn gói đỏ”. Xuân Diệu học được ở cha – ông đồ Nghệ – đức tính cần cù, kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện và lao động nghệ thuật. Xuân Diệu coi điều đó vừa là một quyết tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống, một niềm say mê lớn. Vì ông là con vợ lẽ, phải xa mẹ từ nhỏ và thường bị hắt hủi khiến ông luôn luôn khao khát tình thương và sự cảm thông của người đời.

1

Về quá trình đào tạo, Xuân Diệu một mặt là trí thức Tây học, đã hấp thụ ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa Pháp một cách có hệ thống trên ghế nhà trường, mặt khác do xuất thân từ một gia đình nhà nho (con một ông tú kép, tức hai lần đỗ tú tài Hán học), nên lại tiếp thu được một cách tự nhiên ảnh hưởng của nền văn hóa truyền thông. Vì thế, có thể tìm thấy ở nhà thơ sự kết hợp hai yếu tố cổ điển và hiện đại, Đông và Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mĩ. Tất nhiên, văn hóa, văn học phương Tây vẫn có ảnh hưởng sâu đậm hơn.

Xuân Diệu là một tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, nghiên cứu phê bình văn học, dịch thuật. Nhưng ông trước hết vẫn là một nhà thơ – một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.

  1. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
  2. Về thơ:
  1. Tư tưởng chi phối toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu là niềm khát khao giao cảm với đời. Ông quan niệm rằng phương tiện giao cảm trực tiếp và linh diệu nhất, không gì bằng thơ nên khi sáng tác, ông muốn thả những mảnh hồn sôi nổi và tinh tế của mình để tìm đến những tâm hồn bè bạn ở mọi phương trời, ở mọi thế hệ, ở mọi thời khắc, của hôm nay và vĩnh viễn mai sau (Tình mai sau)

Đồng thời, Xuân Diệu muốn “cái tôi” phải được khẳng định chói lọi: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” – nhà thơ sợ nhất phải hòa tan cái tôi của mình trong biển người vô danh “mờ mờ nhân ảnh”… Nhưng sống mãnh liệt huy hoàng như thế nào, nhà thơ chưa có định hướng rõ rệt.

  1. Với một hồn thơ yêu đời, yêu sống, Xuân Diệu đã thổi vào phong trào Thơ mới một luồng gió nồng nàn, sôi sục ít có trong thơ ca truyền thống. Thoát khỏi con mắt ước lệ cũ, nhà thơ nhìn cuộc đời bằng con mắt của chính mình, nhìn thấy bao vẻ đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và con người nơi trần thế (vội vàng). Với Xuân Diệu, tất cả đều là tình yêu thứ nhất, là mùa xuân đầu. Ông sống mãnh liệt, sống hết mình với cuộc đời.
  1. Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu. Một tình yêu vô biên, khát khao tuyệt đích và vĩnh cửu. Tuy nhiên ông lại cảm thấy không tìm được tình yêu như thế trong thực tế nên thơ tình Xuân Diệu hầu hết là nỗi đau của một trái tim đắm say nồng nhiệt mà không được đáp đền xứng đáng, là cảm giác cô đơn giá lạnh trước thái độ nhạt nhẽo của người đời.
  1. Thơ Xuân Diệu “Tây quá”! Ấy là bởi ông chủ yếu chịu ảnh hưởng của trường thơ tượng trưng Pháp thế kỉ XIX. Nhờ vậy mà kinh nghiệm của Đông và Tây, truyền thống và hiện đại, đã được kết kinh ở một tâm hồn nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời, giúp Xuân Diệu khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người và thể hiện được trong những vần thơ “ít lời, nhiều ý, súc tích như đọng lại bao nhiêu tinh hoa” (Thế Lữ).
  1. Đặc điểm cơ bản của thơ Xuân Diệu: một thế giới nghệ thuật đầy tình tứ, màu sắc mà chuẩn mực của cái đẹp là con người – con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Quan điểm mĩ học này giúp Xuân Diệu sáng tạo được nhiều hình ảnh mới mẻ, độc đáo, đẹp một cách khỏe khoắn và đầy sức sống.
  1. Về văn xuôi:
  1. Với hai tập bút kí, truyện ngắn Phấn thông vàng (1939) và tùy bút Trường ca (1945), Xuân Diệu đã để lại nhiều trang viết đáng gọi là kiệt tác.
  1. Văn xuôi Xuân Diệu giàu chất thơ trữ tình, cảm hứng lãng mạn là chủ đạo nhưng vẫn có những trang viết nghiêng về cảm hứng hiện thực (Tỏa nhị kiều, Cái hỏa lò,…). Văn ông có nhiều ý tứ trong thơ mộng nhưng được diễn tả, phân tích tỉ mỉ hơn. Trường ca được coi là áng thơ văn xuôi diễm lệ, đầy sức hấp dẫn (Lệnh, Hoa học trò, Giã từ tuổi thơ, Thu,…).

2

  1. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
  2. Nét riêng trong sự lựa chọn xử lí đề tài, xây dựng chủ đề, đối tượng miêu tả:
  1. Đề tài tình yêu:

Không giống với những nhà thơ khác, tình yêu trong thơ Xuân Diệu không chỉ bao gồm khát vọng nhục dục mà còn đòi hỏi sự hòa hợp của hai tâm hồn, đòi hỏi cái vô tận, vĩnh cửu trong tình yêu. Tình yêu với ông là một giá trị tinh thần vĩnh viễn, là phương tiện biến khoảnh khắc thành vĩnh cửu, biến hữu hạn thành vô hạn, biến bốn mùa thành mùa xuân… Vậy nên Xuân Diệu không bằng lòng với tình yêu mơ màng, xa xăm như Thế Lữ hay Lưu Trọng Lư mà huy động cả linh hồn và thể xác, mọi giác quan để hưởng thụ tình yêu một cách vồ vập: Mau lên chứ vội vàng lên với chứ / Em em ơi tình non đã già rồi (Giục giã). Với Xuân Diệu, lần đầu tiên ở Việt Nam, tình yêu được quan niệm một cách chân thành, táo bạo, mới mẻ đến thế.

  1. Đề tài tuổi trẻ:

Đề tài tuổi trẻ thường luôn gắn liền với tình yêu trong thơ Xuân Diệu, được khẳng định một giá trị vĩnh hằng bất biến: Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn; Tình không tuổi và xuân không ngày tháng.

  1. Đề tài thời gian:

Ở đề tài thời gian, Xuân Diệu đối phó với sự chảy trôi của thời gian bằng cách khẳng định hiện tại, sông sâu sắc, sống sôi nổi, mãnh liệt với hiện tại, khẳng định tình yêu và thơ ca sẽ là phương tiện chiến thắng thời gian. Điểm độc đáo nữa của Xuân Diệu khi triển khai đề tài thời gian là ở chỗ: với ông chỉ có hai mùa, mùa xuân và mùa còn lại. Mà phần còn lại ấy lại hầu như không có vì các mùa đều có thể thành xuân, mùa xuân ở giữa mùa thu, mùa hè, mùa đông, bởi đó là xuân lòng, xuân tâm tưởng (Xuân không mùa).Đặc biệt, Xuân Diệu không phân thời gian theo cách thông thường thành quá khứ – hiện tại – tương lai mà ông phân thời gian chỉ có hai thì: thời tươi và thời phai: Cho chuếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng / Cho no nê thanh sắc của thời tươi; Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi / Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa… (Vội vàng). Có thể nói, với ông, tình nồng thắm làm nên thời tươi, còn tình lặng ngắt làm nên thời phai.

  1. Hệ thống hình tượng, hình ảnh và các mô tuýt nghệ thuật đặc trưng:
  1. Hình tượng một “cái tôi” độc đáo:

“Cái tôi” trong thơ Xuân Diệu là một “cái tôi” chủ động, mạnh mẽ, sôi nổi đến vồ vập trong tình yêu nhưng có khi lại cô độc (Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất / Không ai chi bè bạn nổi cùng ta – Hy Mã Lạp Sơn), yếu đuối, buồn bã, đợi chờ, mong được ban phát tình yêu: Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi; Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ / Một giây cũng cam, một phút cũng đành (Mời yêu). Một cái tôi vừa là tình nhân, vừa là triết nhân. Cái tôi tình nhân gồm đủ hai con người: một gã tình si và một kẻ thất tình. Càng cuồng nhiệt, đam mê thì càng cô đơn, lạnh lẽo, hững hờ: Lòng anh là một cơn mưa lũ / Đã gặp lòng em là lá khoai (Nước đổ lá khoai); Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn… Con người triết nhân thì không vội vàng, mê mải yêu đương như con người tình nhân mà boăn khoăn tìm bản chất, cội nguồn của tình yêu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu; Yêu là chết ở trong lòng một ít…(Yêu).

  1. Hình tượng người người tình:

Người tình trong thơ Xuân Diệu không phải gái quê như trong thơ Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử mà rất đài các, kiêu sa. Ông tạo ra ở hình tượng giai nhân một điệu sống theo lối mới với thủ pháp khắc họa mới: da thịt du dương, ngón tay thơ, xiêm nghê nổi gió lùa… Nàng hiện lên là một tình nhân đầy quyến rũ nhưng cũng là một gia nhân hờ hững: Đôi mắt của người yêu ôi vực thẳm / Ôi trời xa vừng trán của người yêu; Em đã xé lòng non cùng giấy mới…

3

  1. Hình tượng thế giới:

Hình tượng thế giới trong thơ Xuân Diệu hiện ra với một diện mạo phổ biến: mảnh vườn tình ái và sa mạc cô liêu với không gian là vạn vật, con người giao duyên với nhau: Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy / Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ / Nghiêng xuống đường rêu một lối đầy; Những tiếng ân tình hoa bảo gió / Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân: Gió xuân phơ phất bay vô ý / Đem đụng cành mai sát nhánh đào… Tương phản với vườn tình ái là sa mạc cô liêu – thế giới của cô đơn, bất hạnh, vạn vật li tán: Mà tình ái là sợi dây vấn vít / Mà cảnh đời là sa mạc vô liêu; Bãi xa cũng muốn làm sa mạc…

  1. Hình ảnh đặc trưng:

Có hai hệ thống hình ảnh đặc trưng trong thơ Xuân Diệu: hình ảnh đẹp, tràn đầy màu sắc, âm thanh, đường nét vui tươi (đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, ánh sáng chớp hàng mi, sự sống mơn mởn, cánh bướm, mùa xuân) và những hình ảnh gợi sự chia lìa, u buồn, cô đơn (đàn buồn, đàn lặng, trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết, giá băng tràn mọi nẻo…). Không chỉ vậy, những hình ảnh quen thuộc ấy luôn tràn đầy ấn tượng và cảm giác của mọi giác quan, được viết theo lối riêng vô cùng độc đáo của Xuân Diệu. Ví dụ như hình ảnh đôi mắt trong bài “Hôn cái nhìn”: Không phải anh hôn nơi mắt / Anh hôn cái nhìn của em / Mắt em một vừng yêu mến / thắt anh trong lưới êm đềm hay hình ảnh giọt lệ – trái đất: Trái đất ba phần tư nước mắt / Đi như giọt lệ giữa không trung.

  1. Hệ thống thủ pháp, biện pháp:

Về so sánh được Xuân Diệu sử dụng khá nhiều. Có so sánh cụ thể (Lá liễu dài như một nét mi), có so sánh rất trừu tượng (Trăng của xa xôi, trăng của hão huyền / Người vĩnh viễn như lòng trăng ý gió – Ca tụng) nhưng cũng không thiếu cảm xúc. Rất nhiều trạng thái cảm xúc trừu tượng qua so sánh trở nên cụ thể: Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp / Như túp nhà không bốn vách xiêu (Bên ấy bên này); Và đêm nay lòng tôi lạnh lẽo / Như sáng trăng trên mặt nước thu lờ.

Về ẩn dụ, đặc biệt trong thơ Xuân Diệu xuất hiện nhiều loại ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: nhạc thơm, nhạc hường …

Về đảo ngữ, Xuân diệu thường đảo những tính từ, động từ, trạng thái chỉ cảm xúc lên trước để gây ấn tượng về cảm giác: Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió (Buồn trăng); Lạnh lẽo chân qua để bụi mờ / Thờ thẫn cây đa trên bến cũ (Buổi chiều).

  1. Cách tổ chức kết cấu tác phẩm:

Trong thơ, Xuân Diệu có những cấu tứ độc đáo, không giống ai như tứ: tấm kính giữa đôi ta, tưởng gần gũi nhưng lại là ngăn cách. Hay ở bài thơ “Chầm chậm đừng quên”, tứ thơ cũng rất đặc biệt với ý: khi yêu nhau giữa hai người có những sợi dây vô hình ràng buộc và khi xa nhau cũng phải cởi cho hết những sợi dây ấy nhưng tránh sao khỏi những vết lằn đau da thịt…

Trong văn xuôi, Xuân Diệu sử dụng nhiều điệp khúc, hình ảnh đầy chất thơ kết hợp với kĩ thuật đưa đẩy văn chương kim cổ, kĩ thuật dồn văn giúp lời văn uyển chuyển , khéo léo, hấp dẫn người đọc.

  1. Ngôn ngữ:
  1. Từ ngữ được sử dụng rất độc đáo, đặc sắc:

Xuân Diệu đã đưa vào lời thơ một hệ thống từ vựng mới và cách sử dụng mới: đôi giếng mắt; mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân; trăng rộng quá; tháng giêng ngon như một cặp môi gần; hạnh phúc vờn trong buổi nắng mai; uống tình yêu dập cả môi, long lanh tiếng sỏi… Những thứ trừu tượng không thể định lượng bỗng chốc đã có hình hài, vóc dáng. Cũng có khi một từ rất cũ được Xuân Diệu dùng để diễn tả một cảm xúc rất mới. Ví dụ: dùng từ chín bệ (vốn chỉ ngôi vua) để diễn tả cái cao cả của tình yêu lên ngôi: Rồi ngó mê nhau ta mỉm mắt cười / Và lặng lẽ thấy lòng cao chín bệ (Kỉ niệm) hay dùng những điển cố không theo lối mòn (Dương Quan…)

4

  1. Cấu trúc câu thơ mới mẻ. táo bạo:

Xuân Diệu có cách diễn đạt rất Tây: Đã nghe rét mướt luồn trong gió; Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Hơn một loài hoa đã rụng cành; Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm… Ông còn hay sử dụng lối câu vắt dòng, ý nghĩa của dòng này nối kết với ý nghĩa của dòng khác, tạo thành một hiện tượng mới lạ của văn chương. Câu thơ của ông cũng đậm chất văn xuôi. Những quan hệ từ như: mà, tuy thế, vì vây, cho nên, nhưng… xuất hiện dày đặc.

Qua đó, ta có thể thấy cách diễn đạt của Xuân Diệu hiện đại mà rất tinh luyện. Câu chữ mới mẻ, vừa tiếp nhận văn hóa thẩm mĩ phương Đông, vừa ảnh hưởng văn hóa, thẩm mĩ phương Tây, tiếp thu thành công thuyết tương giao của Beaudelaire (Này lắng nghe em khúc nhạc thơm…). Sự kết hợp giữa tính hiện đại và chất cổ điển chính là một nét phong cách độc đáo của Xuân Diệu.

  1. Giọng điệu:

Giọng điệu thơ Xuân Diệu lúc mềm mại, đê mê, khi lả lơi sung sướng, lúc buồn bã tha thiết như tiếng thở than tận cõi sâu kín của tâm hồn nhưng chủ yếu vẫn là giọng sôi nổi, nồng nhiệt: Tôi muốn tắt nắng đi…; Tôi muốn buộc gió lại… Đặc biệt, thơ tình yêu của ông luôn bộc lộ một tình cảm thiết tha, da diết, nhớ thương không cùng (trong bài “Biển”, giọng điệu thơ trẻ trung, nồng nhiệt được thể hiện qua một loạt điệp từ, điệp âm… từ đầu cho đến cuối bài thơ). Ngoài ra, ông còn rất hay sử dụng nhiều động từ mạnh, những tính từ chỉ trạng thái đắm say… giúp lời thơ giàu chất trữ tình, tràn đầy màu sắc và âm thanh.

  1. ĐIỂM NHÌN NGHỆ THUẬT:
  2. Cái nhìn cuộc sống trẻ trung, xanh non qua các giác quan rộng mở:
  1. Cái đẹp của thế giới, của con người, của tình yêu phải là cái tươi nguyên, mới mẻ, đầu tiên:

Xuân Diệu hay nói đến Tình thứ nhất, Xuân đầu, Đêm thứ nhất, thanh tân, trinh bạch, mới nụ, ban sơ… đã thể hiện lên một quan niệm: những gì mới mẻ, nguyên vẹn mới đẹp. Với ông, trời đất đẹp là đẹp ở cái son sẻ, trẻ trung: Son sẻ trời như mười sáu tuổi / Má hồng phơn phớt mắt long lanh (Rạo rực). Ông say sưa, ngây ngất với những vẻ đẹp ban đầu: Sao buổi đầu xuân êm ái thế; Say người như rượu tối tân hôn; Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Mười chín tuổi mặt trời đang óng ả / Ánh sáng ca, lanh lảnh tiếng đời ngân / Bông hạnh cười; mười chín tuổi thanh tân / Gánh nhẹ nhõm trên thân hình măng mọc (Đẹp).

Có những cái không phải là đầu tiên, thứ nhất nhưng khi cần ca ngợi, Xuân Diệu đưa về ngôi thứ nhất cả: Đêm thứ bảy cũng là đêm thứ nhất (Đêm thứ nhất). Ông khoe: Thơ ta hơ hớ chưa chồng (Mùa thi). Ông ao ước: Hái một mùa hoa thuở măng tơ (Giục giã).

Xuân Diệu còn viết nhiều về mùa xuân và mùa thu. Ông nói: “Với lòng tôi chỉ có hai mùa xuân và thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh. Xuân và thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy thu cũng là một mùa xuân. Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi, đầu thu là bình minh mát của lòng tôi” (Thu, Trường ca). Như vậy với Xuân Diệu, xuân hay thu phải là khi bắt đầu mới đẹp.

Xuân Diệu cũng viết nhiều về tuổi trẻ vì trong quan niệm của ông, tuổi trẻ là nơi bắt đầu của đời người và cũng chính là vẻ đẹp của cuộc đời. Ông ca ngợi tuổi trẻ:

Phố đẹp, người xinh là đời bánh mật

Mặt tươi, môi đậm là gã trai tân

Rộn tuổi trẻ dưới ánh đèn ngây ngất

Reo ái tình trong nhịp máu phân vân

(Đêm thứ nhất)

5

Cái đẹp thanh khiết của tuổi trẻ còn làm ông ngây ngất: Em thảnh thơi như buổi sáng đầu ngày (Đẹp). Có thể nói, cái nhìn của Xuân Diệu rất đỗi trẻ trung. Đối với thi sĩ, phần ngon nhất của cuộc đời là mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Con người hạnh phúc nhất là ở tuổi trẻ và tình yêu.

  1. Thiên nhiên luôn hiện lên với vẻ đẹp thật tình tứ:

Ông nhìn đóa hồng nhung thành những cặp môi hôn và gọi là đóa hôn (Đóa hồng nhung). Nhìn phấn thông bay trong gió, ông thấy ái tình tản mạn ôm ấp không gian (Phấn thông vàng). Vầng trăng đối với Xuân Diệu là: trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ, gió trong thơ Xuân Diệu là gió canh khuya hay nghìn ngón tay ôm, hoa trong thơ ông thì khó phân biệt được là hoa hay là những thiếu nữ đa tình (Nụ cười xuân, Lạc quan, Với bàn tay ấy, Hoa đêm); còn biển trong thơ Xuân Diệu đúng là một tình nhân dắm say:

Anh xin làm bể biếc

Hôn mãi cát vàng em

Đã hôn rồi hôn lại

Cho đến mãi muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt.

(Biển)

Qua đôi mắt trẻ trung và niềm khát khao giao cảm của Xuân Diệu, các tình cảm khác của con người ngoài tình yêu cũng được luyến ái hóa như tình bằng hữu:

Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương

Họ đi tay yếu trong tay mạnh

Nghe hát ân tình giữa gió sương…

Không hề mặc cả, họ yêu nhau

(Tình trai)

Tình cảm với cuộc đời:

Tay ân ái như những làn thiên thể

Đã ôm đời vào ngực để mơn ru

(Tình mai sau)

  1. Thế giới trong thơ Xuân Diệu là thế giới của sự sống tràn trề, mạnh mẽ, hăng say và đầy rạo rực:

Xuân Diệu nhìn mọi sự vật, sự việc trong đời không đứng yên mà luôn luôn vận động, khiến cho thơ ông có những phát hiện mới mẻ. Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu là một thế giới động, rạo rực, không có gì đứng yên, từ ngọn gió cho đến ánh trăng, từ con đường cho tới hàng cây … Tất cả phải bùng lên trong khát khao được sống, được giao cảm cảm. Ánh trăng không lặng lẽ mà tỏ ngời (Trăng lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời – Nguyệt cầm), ngọn gió vô hình cũng hiện ra dáng xiêu xiêu (Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu – Thơ duyên). Sự sóng tuôn chảy trong dạt dào trong thơ Xuân Diệu.

  1. Hạnh phúc với Xuân Diệu là ở giữa trần gian, ngay trong hiện tại:

Xuân Diệu hướng về sự sống chẳng bao giờ chán nản bởi cuộc sống là muôn màu muôn vẻ. Ông thấy cuộc sống đẹp như thiên đường trên mặt đất: Của ong bướm này đây tuần tháng mật / Này đây hoa của đồng nội xanh rì / Của yến anh này đây khúc tình si (Vội vàng). Vì vậy, nhà thơ luôn thiết tha gắn bó với cõi trần, với cuộc đời hiện tại. Xuân Diệu sống với thì hiện tại mà ngày trước và ngày sau đều không đáng kể: Kể chi chuyện trước với ngày sau (Tình trai), Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai (Giục giã). Đối với các nhà thơ khác, hiện tại là những nấm mồ chôn tuổi trẻ:

6

Và Hiện Tại, biết cùng chăng hỡi bạn

Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh

(Những nấm mồ – Chế Lan Viên)

Bao nhiêu người khác chối bỏ hiện tại, Thế Lữ thoát lên tiên, Vũ Hoàng Chương say, còn ở Thâm Tâm và Nguyễn Bính vang lên điệp khúc ra đi, ra đi. Chỉ có Xuân Diệu bám riết lấy hiện tại, lấy cõi trần. Với ông, khổ đau, buồn vui đều chìm đắm vào trong những phút giây mong manh của hiện tại. Ông rút gọn hiện tại lại, lấy phút giây làm đại lượng đo đếm cảm xúc: Chim giữa nắng sao mà kêu đến chói / Ôi vô cùng trong một phút nhìn nhau (Xuân đầu); Một phút gặp thôi là muôn buổi nhớ (Yêu mến). Ông vĩnh viễn hóa hiện tại: Tôi muốn tắt nắng đi / Cho màu đừng nhạt mất / Tôi muốn buộc gió lại / Cho hương đừng bay đi (Vội vàng). Từ cái nhìn đó, quan niệm đó, Xuân Diệu có một thái độ sống tích cực, không thoát li hiện tại: Ta muốn ôm / Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn (Vội vàng); Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn / Làm dây da quấn quýt cả mình xuân / Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần / Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất (Thanh Hiên); Đi sao được khi mặt trời vẫn nở? / Bỏ sao đang những mái ngói yên lành? / Đường rất nặng với hàng cây hay nhớ / Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn? (Từ biệt).

Hoài Thanh từng nhận xét: “Nếu Thế Lữ trốn lên tiên giới, thì Xuân Diệu lại đốt cảnh Bồng Lai mà xua ai nấy về hạ giới”. Thế Lữ cũng thừa nhận: “Lầu thơ của ông xây dựng trên mảnh đất của một tấm lòng trần gian”. Thơ Xuân Diệu chính là niềm thiết tha gắn bó với cuộc sống hiện tại của cõi trần.

  1. Quan niệm sống vội vàng, sống sôi nổi, cuồng nhiệt:

Cảm thức thời gian của Xuân Diệu rất nhạy bén, từng giọt thời gian là cae một niềm se sót, nuối tiếc khôn cùng. Thi sĩ hiểu rằng không bao giờ giải quyết được mâu thuẫn giữa cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của thời gian (Vội vàng). Với ông, thời gian luôn một đi không trở lại nên ông luôn thấy xuân đang qua, tuổi trẻ đang mất, tình yêu đang phai tàn: Tóc ngời mai mốt không đen nữa / Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi (Hư vô). Vì vậy, Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng, cuống quýt: Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ / Em em ơi, tình non sắp già rồi (Giục giã)

Xuân Diệu luôn nỗ lực chạy đua với thời gian, tăng cường độ sống. Ông muốn sống nhanh, sống gấp, sống mạnh mẽ, muốn tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan, muốn ôm lấy tất cả cuộc sống này, riết lấy tất cả trong đôi tay hăm hở của mình. Nhờ vậy mà cảm xúc trong thơ ông lúc nào cũng sôi nổi, dạt dào, niềm ham sống sôi trào mãnh liệt, vồ vập đến tắc thở vẫn không đã, không thỏa, ngay cả khi cận kề cái chết. Thi sĩ mang theo suốt cả đời một cơn khát lúc nào cũng thiêu đốt tâm can, đắm say, rạo rực: Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn / Làm dây da quấn quýt cả mình xuân / Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần / Chân bám rễ để hút mùa dưới đất…

Xuân Diệu quả là một hồn thơ khát sống, khát yêu, kháy khao giao cảm tới cuồng nhiệt. Hoài Thanh cũng từng nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lạnh lẽo này”. Xuân Diệu còn tự giới thiệu: Tôi là kẻ đưa răng bấu vào mặt trời / Kẻ đựng trái tim trìu máu đất / Hai tay chín móng bám vào đời (Hư vô). Xuân Diệu ngất ngây, đắm say với muôn vàn biểu hiện của sự sống. Nhà thơ lăn xả vào cuộc đời mà sống. Ông kêu gọi: hãy nói, hãy kề, hãy khăng khít, hãy dâng, hãy yêu tôi,…; ông bắt buộc phải nói, phải yêu, phải mặn nồng, phải ấm lên; ông khuyên chớ yên ổn như mặt hồ nước ngủ, chớ lạnh như đông; ông cầu xin xin chút lửa, xin chút thương; ông khao khát được ôm, được riết, được bấu, được say, được ghì, hút…Từ đó, ông đã đưa ra một triết lí sống tích cực: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm; Sống toàn tâm toàn trí sống toàn hồn / Sống toàn thân và thức nhọn giác quan (Thanh niên).

7

Khát khao được sống, được giao cảm với Xuân Diệu, nói như Thế Lữ, còn gì làm cho đầy đủ hơn Xuân và Tình. Lê Đình Kỵ cũng nhận xét: “Lòng say mê yêu đời ở Xuân Diệu đã trút hết vào tình yêu và thiên nhiên”. Đặc biệt là tình yêu. Tình yêu là biểu hiện tập trung nhất, mạnh mẽ nhất của lòng ham sống. “Xuân Diệu đã sống để mà yêu và yêu để mà sống” (Huy Cận). Xuân Diệu luôn muốn tạo nên một không khí yêu thương say đắm: Tình thổi gió màu yêu lên phất phới (Giục giã), luôn khao khát một tình yêu vô biên và tuyệt đích: Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân / Đem chim bướm thả trong vườn tình ái (Phải nói)…

  1. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là tình yêu của con người sống giữa đời chứ không phải là tình yêu đạo đức trong sách vở:

Có thể nói, Xuân Diệu là người đầu tiên đã đưa tính nhục thể và những thèm muốn nhục dục thật lành mạnh và cường tráng vào thơ tình:

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài

(Xa cách)

Đó là thứ tình yêu rất trần thế mà không bị trần tục hóa. Trong thơ cổ mới chỉ dừng lại ở những hình ảnh mang tính chất ám tượng. Thơ mới buổi đầu cũng chưa có cảm giác này. Chỉ đến Xuân Diệu, nhục thể trong tình yêu mới được đưa vào thơ thật táo bạo mà cũng đầy tinh tế. Ông diễn tả nhiều cảm giác mạnh bạo: muốn ôm, riết, say, cắn,… nhưng không hề thô tục mà lại gợi được cảm giác nồng nàn, tha thiết của tình yêu: Nghiêng đầu bên trái hãy kể nghe / Những ngón tay thần sẽ vuốt ve / Cho điệu lòng anh thêm ấm dịu / Sờ xem ngực nóng khúc đê mê ( Có những bài thơ). “Cảm xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu rất dời mà cũng rất thơ. Nó không thơ quá để đến mức chỉ là cảm xúc sách vở, nhưng cũng không đến mức đời quá để chỉ còn cảm giác xác thịt” (Lê Tiến Dũng, Nhà văn và phong cách, t.35).

Sự lành mạnh trong quan niệm tình yêu còn thể hiện ở quan niệm khác của Xuân Diệu: tình yêu không chỉ là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn: Trời cao trêu nhử chén xanh êm / Biễn đắng không nguôi nỗi khát thèm / Nên lúc môi ta kề miệng thắm / Trời ơi ta muốn uống hồn em (Vô biên). Đó chính là khát vọng cao nhất, cái đích cao nhất của tình yêu, cái tạo nên hạnh phúc của những đôi tình nhân chân chính. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu luôn khao khát sự hòa hợp về tâm hồn. Và khi không tìm thấy sự hòa hợp ấy, ông cảm thấy xa cách, cô đơn, hoài nghi: Dù tin tưởng chung một đời một mộng / Em là em, anh vẫn cứ là anh / Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành / Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật (Xa cách); Giấu mãi, nghi hoài hay ghen bóng gió / Anh muốn vào dò xét giấc em mơ / Em giấu anh cả những chuyện không ngờ / Cũng như anh giấu em những điều quá thực. Như vậy, phải đến Xuân Diệu, quan niệm tình yêu vừa trần tục, vừa lí tưởng mói được cất lên tiếng nói của nó.

  1. Xuân Diệu ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân hơn bất khì một nhà thơ mới nào khác:

Với Xuân Diệu, cái tôi đã thực sự được giải phóng. Nó không còn bỡ ngỡ, dè dặt như trước mà trở nên hết sức thành thật táo bạo khi thể hiện những cảm xúc cháy bỏng của nó. Qua thơ Xuân Diệu, ta thấy một cái tôi khát sống khát yêu đến cuồng nhiệt. Không triền miên sầu mộng như Lưu Trọng Lư, không hoài vọng, mơ màng, xa xăm như Huy Thông, Thế Lữ, không ảo não như Huy Cận… Xuân Diệu dường như đã huy động cả linh hồn và thể xác cùng mọi giác quan để thể hiện cảm xúc của mình. Cái tôi cá nhân ấy được ý thức sâu sắc và mới mẻ hơn. Lần đàu tiên trên thi đàn, cái tôi tiểu tư sản mạnh dạn bày tỏ những tâm tư thầm kín, niềm yêu sống và những khát vọng không dứt. Vì thế, ông không chỉ hoàn toàn mới lạ so với các thế hệ trước mà còn mới so với các nhà thơ cùng thời. Chỉ có Xuân Diệu mới bộc lộ tương đối đầy đủ và tới độ mới nhất của thơ mới.

8

  1. Xuân Diệu là nhà thơ của cảm giác, xúc giác:

Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng Pháp. Xuân Diệu luôn có sự cảm nhận tinh tế về cảm giác, khai thác ở cõi vô thức, tiềm thức. Ông có thể ghi lại những biến thái mỏng manh, tinh tế nhất của ngoại cảnh và tâm cảnh: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm… (Nguyệt cầm). Xuân Diệu không chỉ tả dược cái thấy mà còn tả được những rung động rất nhỏ ở bên trong sự vật, tả âm thanh, tả những cảm giác gợi ra từ tiếng nhạc: Long lanh tiếng sỏi vang vang hận (Nguyệt cầm).

Trong khi thơ cổ chủ yếu cảm nhận thế giới bằng thính giác, thị giác và một ít khứu giác thì Xuân Diệu cảm nhận thế giới bằng mọi giác quan. Ông mở rộng các giác quan của mình với những cảm giác rất mói mẻ như là ngoài cái nhìn thị giác còn có cái nhìn xúc giác: mắt trao hôn, mắt mơn da… Và trong khi người xưa chỉ ngắm nhìn hoặc ao ước hòa nhập vào cùng trời đất thì Xuân Diệu muốn kéo cả thế giới vào vòng tay đầy cảm giác của mình với những ôm, riết, say, thâu cắn,… Những động từ gợi cảm giác mạnh ấy đã tạo nên cái ào ạt, mạnh mẽ trong thơ ông, làm nên những vần thơ đầy cảm giác, mang đến cho thơ mới cái nồng nàn, mạnh mẽ, tươi rói của cuộc đời.

Ngoài ra, Xuân Diệu cong chú ý đến sự tương ứng giữa các giác quan. Nhờ lối cảm nhận này, ông phát hiện ra nhiều điều mới mẻ về thế giới: cảm giác được vượt ra ngoài giới hạn thông thường. Ông đã gợi lên những ấn tượng về thế giới chứ không dừng lại tả chân về thế giới (Những luồng run rẩy rung rinh lá: không nhằm tả gió mà gợi lên cảm giác về gió – gió lạnh).

*

* *

Xuân Diệu là một nhà thơ mới, tuy có lúc ngạo nghễ coi mình như đỉnh Hi Mã Lạp Sơn (Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất / Không có chi bè bạn nổi cùng ta) nhưng thực chất lại là một tâm hồn luôn rộng mở với đời. Ông là một cây đàn Bá Nha nhưng không muốn chỉ có một Chung Tử Kỳ mà khao khát hàng tiệu tri âm, tri kỉ, ở mọi nơi, mọi thời, thuộc mọi loại người khác nhau trên thế gian này. Một tâm hồn như thế, tất nhiên không thể tự giam hãm mình trong một hoạt động văn học nào. Vì vậy ông vừa làm thơ vừa viết nhiều thể văn khác. Và ở lĩnh vực nào ông cũng có đóng góp lớn, in đậm hình ảnh một Xuân Diệu – nhà thơ của mùa xuân và tuổi trẻ, luôn luôn sôi nổi tình yêu, dạt dào tình đời.

  1. MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU:

Thơ thơ (1938) là tập thơ đầu tay của Xuân Diệu. Nó là tiếng thơ dào dạt của một tâm hồn trẻ lúc nào cũng thèm yêu, khát sống, say đắm cuộc đời, quyến luyến khoảnh khắc trần gian, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, tích cực. Tập thơ cũng tràn đầy những cảm nhận tinh vi về sự lạnh lùng của thời gian và sự cô đơn giữa dòng đời, được viết bằng một hình thức hấp dẫn với nhiều cách tân táo bạo và nhuần nhị. Bởi thế, Thơ thơ được xem là một đỉnh cao của phong trào Thơ mới.

  1. Bài thơ “Vội vàng”:

“Vội vàng” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của tập “Thơ thơ”. Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch triết luận sâu sắc cùng những sáng tạo mới lạ trong hình thức thể hiện. Qua đó, bạn đọc có thể cảm nhận được rõ nét lòng ham sống bồng bột, mãnh liệt của nhà thơ với một quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc.

Vội vàng

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi. 9

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt…

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chuếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Theo Thơ thơ, NXB Đời nay, Hà Nội, 1938)

  1. Bài thơ “Yêu”:

Trong sự nghiệp thơ ca của Xuân Diệu, bài “Yêu” có một vị trí khá đặc biệt. Nó không phải là bài thơ “bề thế”, song lại được phổ biến rộng rãi bởi đã nói được những khoảnh khắc tâm tình rất riêng của con người. Vậy nên “Yêu” luôn dễ chiếm được vị trí trong tim người đọc, được hầu hết các tầng lớp đón nhận, yêu thích.