Những đồng chí thân chôn làm giá súng

Bế Văn Đàn sinh năm 1931 ở xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa, Tỉnh Cao bằng. Năm 1948 giữa lúc cuộc chiến tranh ở Đông Dương đang diễn ra quyết liệt anh xung phong vào bộ đội. Đảng Cộng Sản quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Anh được phân công làm liên lạc tiểu đoàn.

Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ chân địch ở Mường Bồn. Pháp thấy lực lượng của quân Việt Minh ít, đã tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích phá vây, nhưng cả hai lần đều thất bại. Cuộc chiến càng lúc càng căng thẳng, khốc liệt, quân Pháp liều chết lao lên, quân ta tử thủ ngăn chặn bước tiến của chúng.

Lúc đó đại đội được lệnh bằng bất cứ mọi giá phải kìm chân địch lại ở Mường Pồn, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù vừa mới đi công tác về nhưng khi chỉ huy thông báo Bế Văn Đàn lập tức xung phong đi làm nhiệm vụ, anh băng qua mưa bom, bão đạn để truyền lệnh cho các đồng đội kịp thời chính xác. Trận chiến diễn ra ác liệt hơn bao giờ hết, anh liền ở lại đại đội kề vai sát cánh chống địch cùng các anh em.

Cuộc phản kích của quân Pháp nổ ra lần thứ 3. Đại đội quân ta chỉ còn vỏn vẹn 17 chiến sĩ, bản thân anh cũng đang bị thương nhưng vẫn tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu tới cùng. Có một khẩu trung liên của đại đội không bắn được vị xa thủ hi sinh, khẩu còn lại của Chu Văn Pù cũng chẳng thể bắn vì không có chỗ đặt súng, tình hình cấp bách, anh liền chạy lại, không chút ngần ngại cầm 2 chân khẩu súng đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn, thấy Pù còn do dự chưa bắn, anh nói "kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi" trong lúc lấy thân làm giá súng anh còn bị thêm 2 vết thương nữa và hy sinh, nhưng 2 tay anh vẫn ghì chặt chân súng trên đôi vai của mình.

Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Ảnh minh họa

Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Anh hùng Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng

Sưu tầm và ghi lại một số câu thơ (hoặc lời bài hát) về chiến thắng Điện Biên Phủ.

Trả lời: 

Bài thơ 1: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Chiến sĩ anh hùng

Đầu nung lửa sắt

Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng

Chí không mòn!

Những đồng chí thân chôn làm giá súng

Đầu bịt lỗ châu mai

Băng mình qua núi thép gai

Ào ào vũ bão,

Những đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...

Những bàn tay xẻ núi lăn bom.

Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”

Bài thơ 2: “Về với Điện Biên” – Thiên Ân

Ngày anh về với Điện Biên

Đôi chân ươm mộng trên triền núi cao

Bấy lâu mơ ước gặp nhau

Hẹn hò dốc đá ngày nào còn vương

Mường Thanh mây trắng ngập đường

Cánh đồng tỏa nắng soi gương đầu ngày

Hàng rào, dây kẽm, thép gai...

Điện Biên một thuở đạn bay, lửa hờn.

Đọc bài thơ:”Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”-Tố Hữu và trả lời các câu hỏi phía dưới

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm…
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”

Câu 1: Xác định nội dung chính của đoạn thơ
Câu 2:Chỉ ra và nêu tác dụng của thể thơ được sử dụng trong đoạn thơ trên Câu 3: Đoạn thơ đề cập đến cuộc kháng chiến vĩ đại nào của dân tộc? Đọc đoạn thơ, anh/chị liên tưởng đến những người anh hùng nào trong lịch sử dân tộc? Câu 4:”Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt,Máu trộn bùn non,” nói lên điều gì về  trận đánh lịch sử ấy? Câu 5: Cảm xúc của anh/ chị sau khi đọc đoạn thơ trên? Đáp án: Câu 1 .Nội dung của đọan thơ: ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng, bất khuất, quật cường vì độc lập tự do của đát nước của những chiến sĩ Điện Biên Câu 2: thể thơ tự do Tác dụng: +Cảm xúc được bộc lộ một cách tự nhiên ,thoải mái, chân thành +Nhịp thơ nhanh, mạnh mẽ , dứt khoát, câu văn dài ngắn đan xen phù hợp với biểu đạt cảm xúc và tái hiện khí thế sôi nổi của trận chiến. +Âm hưởng ngợi ca hào hùng Câu 3: đoạn thơ đề cập đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Gợi liên tưởng đến tên những người anh hùng :Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót Câu 4:”Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt,Máu trộn bùn non” có ý nghĩa: Cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ và khốc liệt, nhiều đau thương mất mát Câu 5 : HS có thể trình bày cảm xúc cá nhân, cảm xúc phải chân thành, không khuôn sáo, phải có sự lí giải dụa trên việc  phân tích đoạn thơ (Tài liệu sưu tầm )

Xem thêm :Tuyển tập bộ đề đọc hiểu ôn thi THPT Quốc gia ngữ văn

Để góp phần vào sự thành công của chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) đã có biết bao tấm gương anh dũng hy sinh khi tuổi đời còn xuân xanh. Họ, những người chiến sĩ mang trên mình một tình yêu Tổ Quốc, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trong đó, anh hùng Bế Văn Đàn đã dũng cảm lấy thân mình làm giá súng trung liên để đồng đội bắn.

Đôi nét về người anh hùng Bế Văn Đàn

Bế Văn Đàn sinh năm 1931, ở xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Anh sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, tham gia hoạt động du kích từ ngày còn nhỏ tuổi. Năm 1948 anh xung phong vào bộ đội giữa lúc cuộc chiến tranh Đông Dương đang diễn ra quyết liệt.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân ta lúc bấy giờ đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng cộng sản Đông Dương quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1953 – 1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch, anh được phân công làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ Pháp ở Mường Pồn. Lúc đó khi thấy lực lượng của Việt Minh ít, quân Pháp tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân Việt Minh đánh bại. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt, quân Pháp liều chết xông lên, quân Việt Minh kiên quyết ngăn chặn chốt giữ.

Nhận lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, tạo điều kiện các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, anh đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Anh vượt qua lưới đạn dày đặc của Pháp, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trận đấu càng ngày càng diễn ra ác liệt hơn, anh được lệnh ở lại đại đội chiến đấu cùng đồng đội.

Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội Việt Minh bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng không bắn được vì không có chỗ đặt súng. Trong tình thế hết sức khẩn trương, anh không ngần ngại chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn nói: “Kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi”. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, anh bị thêm hai vết thương nữa và hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình. Sự hy sinh của Bế Văn Đàn đã trở thành tấm gương tiêu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Khi hy sinh, anh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Trong đại hội mừng công của đơn vị Bế Văn Đàn được truy tặng danh hiệu Huân chương Chiến công hạng Nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được Quốc hội nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Nhì.

Nguồn tham khảo: Bài viết Những tấm gương anh hùng trong chiến thắng Điện Biên Phủ trên Cổng thông tin điện tử tỉnh Điện Biên

        I   Tin về nửa đêm  Hỏa tốc hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc chạy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa

 Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa...

 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp! Sét đánh ngày đêm                       xuống đầu giặc Pháp! Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ

                                   sao vàng vĩ đại

Kháng chiến ba nghìn ngàyKhông đêm nào vui bằng đêm nayĐêm lịch sử Điện Biên sáng rựcTrên đất nước, như                   Huân chương trên ngực

Dân tộc ta dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùngMà lòng bốn biển nhịp cùng lòng taĐêm nay bè bạn gần xa

Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.

           II

 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,                                 ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! Những đồng chí thân chôn làm                                         giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão, Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm... Những bàn tay xẻ núi lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta

                                lên chiến trường tiếp viện

Và những chị, những anh ngày                                       đêm ra tiền tuyến Mấy tầng mây gió lớn mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan, thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh... Hỡi các chị, các anh Trên chiến trường ngã xuống Máu của anh chị, của chúng ta                                  không uổng Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

 Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...

             III

 Lũ chúng nó phải hàng, phải chết Quyết trận này quét sạch Điện Biên! Quân giặc điên Chúng bay chui xuống đất Chúng bay chạy đằng trời? Trời không của chúng bay Đạn ta rào lưới sắt! Đất không của chúng bay

 Đai thép ta thắt chặt!

 Của ta trời đất đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta Chúng bay chỉ một đường ra Một là tử địa, hai là tù binh Hạ súng xuống rùng mình run rẩy Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm! Nghe trưa nay tháng năm, mùng bảy Trên đầu bay thác lửa hờn căm Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!

 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

 Tiếng reo núi vọng sông rền Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ Bác đang cúi xuống bản đồ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo... Từ khi vượt núi qua đèo Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày Tin về mừng thọ đêm nay

 Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!

        IV

 Đồng chí Phạm Văn Đồng Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành Ngày mai, vào cuộc đấu tranh Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít (*) Anh sẽ nói: "Thực dân, phát xít Đã tàn rồi! Tổ quốc chúng tôi Muốn độc lập hòa bình trở lại Không muốn lửa bom đổ                             xuống đầu con cái Nước chúng tôi và nước các anh Nếu còn say máu chiến tranh Ở Việt Nam, các anh nên nhớ Tre đã thành chông, sông là sông lửa Và trận thắng Điện Biên

 Cũng mới là bài học đầu tiên!"

                                                         5-1954
                                                        TỐ HỮU

----------- (*) Bi-don (Bidault): Ngoại trưởng Pháp.

 Smít (Smaith): Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ.

Lời bình của Trịnh Thanh Sơn

Nếu nói Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, nhà thơ thời sự thì Hoan hô chiến sĩ Điện Biên có lẽ là một trong những bài thơ thời sự nhất của ông. Theo ngày tháng đề dưới bài thơ (5-1954) thì ông viết bài thơ này ngay sau ngày Điện Biên Phủ chiến thắng.

Ngày "Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về là ngày 7-5-1954, thì ngày 11-5-1954, báo Nhân Dân đã in trang trọng trên trang nhất bài thơ này của Tố Hữu. Có nghĩa là, từ khi viết cho đến lúc bài thơ ra mắt hàng triệu độc giả chỉ vẻn vẹn có bốn ngày.

Bài thơ dài tới 96 câu thơ, viết bằng thể thơ tự do có vần (Tố Hữu không viết thơ không vần bao giờ), xen lẫn những đoạn lục bát và vài ba câu song thất, như những lời hát hân hoan xen vào một ký sự thơ.

Cả bài thơ mang một tiết tấu nhanh, mạnh; khỏe ào ào như sóng reo, thác cuốn, lửa cháy và bão táp. Câu, chữ trong thơ là câu chữ dân giã, dễ hiểu, mang hàm lượng thông tin rất cao. Sắc độ chính, xuyên suốt bài thơ là tiếng reo vui, hân hoan chiến thắng. Ngay "tít" bài thơ cũng thể hiện điều đó: "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên"! Lấy một tiếng reo vui, một câu khẩu ngữ mang tính khẩu hiệu làm đầu đề cho bài thơ Tố Hữu đã khẳng định âm hưởng chính cho bài thơ của ông rồi: Đây là niềm hân hoan chiến thắng.

Bài thơ dài, vì thế nhà thơ tổ chức bố cục thật chặt chẽ và khoa học. Có thể thấy bài thơ được chia làm sáu đoạn nhỏ, mỗi đoạn mang một mầu sắc riêng và mang một sứ mạng cụ thể:

Đoạn 1 (bảy câu đầu): Đây là một tin thông tấn được viết dưới góc độ nhìn và tình cảm của một nhà thơ có trái tim yêu nước nồng nhiệt. Ông cho biết rõ thời gian ông nhận được tin, đó là "nửa đêm" (Tin về nửa đêm) và tin ấy đã đến với ông rất nhanh, rất kịp thời, rất "hỏa tốc" (Hỏa tốc, hỏa tốc). Rồi tin ấy đã đến với ông bằng một chiến sĩ thông tin đi ngựa (chứ không phải bằng điện đài - (Ngựa bay lên dốc). Sau khi ông biết tin, thì cả làng bản nơi ông ở đều cùng được biết:

Đuốc chạy sáng rừngChuông reo tin mừngLoa kêu từng cửa

Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa!

Tuy nhiên, ta chỉ biết đó là một tin vui, từ một người nhân ra nhiều người, từ một nhà nhân ra nhiều nhà, từ một bản nhân ra nhiều bản. Nhưng tin vui đó là tin gì vậy, ông vẫn giấu, ông dành cái tin vui ấy cho câu mở đầu ở đoạn 2. Cái tài của người đưa - tin - thi - sĩ chính là ở đấy!

Đoạn 2 (bảy câu tiếp): Ngay câu mở đầu của đoạn 2, tác giả đã "bật mí" cái tin vui to lớn kia là tin gì: Nhưng vì là nhà thơ, thay vì nói "Chúng ta đã giải phóng Điện Biên rồi!", thì nhà thơ lại báo tin bằng một lời reo vui, một khẩu hiệu:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Niềm vui to lớn quá làm cho nhà thơ không kìm nén nổi lòng mình, bật reo lên những lời xưng tụng, rất gần với khẩu ngữ mà vẫn tràn đầy chất thơ, ngợi ca vị tướng tài ba, ngợi ca Bác Hồ, những người trực tiếp chỉ đạo để làm nên chiến thắng lẫy lừng:

Hoan hô đồng chí Võ Nguyên GiápSét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp

... Vinh quang Hồ Chí Minh - cha của chúng ta ngàn năm sống mãi!


Quyết chiến quyết thắng cờ đỏ sao vàng vĩ đại!

Đọc tới đây, ta chợt nhớ đã có hơn một lần, nhà thơ cũng reo vui bồng bột và nồng nàn như thế. Đó là cái đêm lịch sử đứng dậy cướp chính quyền ở Huế, quê hương ông:

Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãyHãy bay lên! Sông núi của ta rồi!Nước mắt ta trào híp mí, tràn môiCổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!... Gió gió ơi! Hãy làm giông, làm tốCuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươiVàng vàng bay đẹp quá sao sao ơi

Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác...

(Huế tháng Tám - Từ ấy)

Chín năm, sau niềm vui ấy là niềm vui hôm nay, dù có từng trải và ghìm nén hơn,nhưng những lời thơ hào sảng thì vẫn nguyên như thế, nguyên một hồn thơ dạt dào như thế; tràn qua đoạn 3 (9 câu):

Kháng chiến ba ngàn ngàyKhông đêm nào vui bằng đêm nayĐêm lịch sử Điện Biên sáng rựcTrên đất nước như huân chương trên ngực

Dân tộc ta dân tộc anh hùng!

Khúc hát hân hoan như một trữ tình ngoại đề, như một dàn đồng ca dào dạt cất lên, thông qua những câu lục bát như lời ru của Mẹ:

Điện Biên vời vợi ngàn trùngMà lòng bốn biển nhịp cùng lòng taĐêm nay bè bạn gần xa

Tin về chắc cũng chan hòa vui chung?

Đoạn 4 (27 câu): Đây là đoạn thơ quan trọng nhất có sức nặng nhất của toàn bộ bài thơ. Tác giả dành hẳn 27 câu thơ để mô tả một cách trực diện cuộc chiến đấu gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta để giành thắng lợi cuối cùng. Mở đầu đoạn thơ quan trọng này, nhà thơ láy lại câu "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" như một tôn vinh, như một tượng đài bất tử:

Hoan hô chiến sĩ Điện BiênChiến sĩ anh hùngĐầu nung lửa sắtNăm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắtMáu trộn bùn nonGan không núng

Chí không mòn!

Đó là bức chân dung sáng rỡ của tập thể những người chiến sĩ Điện Biên trong một cái nhìn toàn cảnh, còn đây là những đặc tả gương mặt của những anh hùng cụ thể, có tên tuổi như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... đã được nhà thơ khắc ghi vào lịch sử văn học đời đời:

Những đồng chí thân chôn làm giá súngĐầu bịt lỗ châu maiBăng mình qua núi thép gaiÀo ào vũ bãoNhững đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt còn ôm...

Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh, là cuộc chiến đấu toàn dân, toàn diện, có sự đóng góp sức lực và xương máu của cả nước. Nhà thơ đã ngợi ca điều đó trong những vần thơ kế tiếp: Và những chị, những anh đêm ngày ra tiền tuyến/ Mấy tầng mây gió lớn mưa to/ Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô anh hò chị hát/ Dù bom đạn xương tan thịt nát/ Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh... Và tác giả khẳng định:

Hỡi các chị, các anhTrên chiến trường ngã xuốngMáu của anh chị, của chúng ta không uổngSẽ xanh tươi đồng ruộng Việt NamMường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng!

Hoa, quả của đất nước mãi còn từ máu và nước mắt, từ tuổi thanh xuân của những anh hùng, liệt sĩ Điện Biên, đó không chỉ là những lời an ủi mà là sự tôn vinh vĩnh hằng!

Đoạn 5 (22 câu): Nhà thơ dành đoạn thơ này để mô tả kẻ thù, những kẻ thù trực tiếp và gián tiếp, những kẻ xâm lược mà kết cục cuối cùng là sự thất bại thảm hại. Lời thơ ở đoạn này thật rắn rỏi, quyết liệt chứng tỏ một tinh thần không khoan nhượng trước kẻ thù! Nhà thơ vốn tài hoa và dịu dàng là thế mà không ngần ngại dùng những từ nhân xưng thật mạnh mẽ và thấm thía: "Lũ" và "nó" và "chúng bay":

Lũ chúng nó phải hàng, phải chếtQuyết trận này quét sạch Điện BiênQuân giặc điênChúng bay chui xuống đấtChúng bay chạy đường trời!... Chúng bay chỉ một đường ra

Một là tử địa, hai là tù binh?

Những lời thơ ấy, không phải chỉ được viết ra sau khi chúng ta đã giành được chiến thắng; như một sự ăn theo, một tràng vỗ tay muộn mằn, mà nó hình thành ngay từ khi chúng ta quyết định đối đầu với Pháp ở Điện Biên Phủ. Niềm tin chiến thắng, niềm tin ở Đảng và Bác Hồ là động lực vô cùng to lớn để những chiến sĩ Điện Biên phất cờ chiến thắng trên hầm De Castries. Bức tranh hoành tráng này, nhà thơ vẽ trên núi rừng, sông suối của Điện Biên:

Nghe trưa nay, tháng 5, mồng 7,Trên đầu bay thác lửa hờn cămTrông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổTướng quân bay lố nhố cờ hàngTrông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng

Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!

Và thêm một lần nữa, nhà thơ reo lên:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Đoạn 6. Chiến thắng lẫy lừng ấy của toàn dân tộc từ đâu mà ra, do đâu mà có? Trong phút lắng lại của những ngày vui dào dạt, nhà thơ nhớ đến Bác Hồ và nghĩ tới công lao của Bác cho trận quyết đấu lịch sử này. Bằng tám câu thơ lục bát, nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh Bác kính yêu trong niềm vui của toàn dân tộc:

Tiếng reo núi vọng sông rềnĐêm nay chắc cũng về bên Bác HồBác đang cúi xuống bản đồChắc là nghe tiếng quân hò quân reoTừ khi vượt suối băng đèoTa đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngàyTin về mừng thọ đêm nay

Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!

Đọc những câu thơ reo vui ấy, tự nhiên ta giật mình! Ừ nhỉ, chiến thắng Điện Biên (7-5-1954) chỉ cách sinh nhật lần thứ 64 của Bác hơn mười ngày! Nhà thơ liên hệ ngay rằng, chiến thắng này là những bông hoa của toàn dân tộc gửi lên mừng thọ Bác: "Tin về mừng thọ đêm nay/ Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!".

Cũng trong đoạn thơ thứ 6 này, nhà thơ nhớ tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng và phái đoàn ngoại giao Việt Nam ở Hội nghị Geneva. Tin chiến thắng Điện Biên sẽ làm cho chúng ta có được một tư thế mới trước kẻ thù:

Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thànhNgày mai vào cuộc đấu tranhNhìn xuống bọn Bi đôn, SmítAnh sẽ nói: Thực dân, phát xít

Đã tàn rồi!

Và như thế, để chuyển sang phần kết của bài thơ mang vóc dáng một trường ca này. Ở đoạn cuối cùng, nhà thơ tuyên bố với thế giới rằng, chúng tôi, những người Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình. Và bài học Điện Biên này sẽ làm cho các dân tộc thuộc địa biết vùng lên giành quyền tự do, độc lập cho dân tộc mình. Nhà thơ khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ đã chôn vùi chế độ thực dân cũ:

Tổ quốc chúng tôiMuốn độc lập, hòa bình trở lạiKhông muốn lửa bom đổ xuống đầu con cáiNước chúng tôi và nước các anhNếu còn say máu chiến tranhỞ Việt Nam, các anh nên nhớTre đã thành chông, sông là sông lửaVà trận thắng Điện Biên

Cũng mới là bài học đầu tiên!

Có thể nói, cùng với chiến thắng Điện Biên lịch sử, vang dội địa cầu, bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu đã làm nên bức tượng đài sừng sững tạc vào năm tháng, tạo một mốc son trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc nói chung và trong tiến trình thơ Tố Hữu nói riêng.

(Kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ), Hà Nội 2004