Bài viết này giới thiệu Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại, sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm đến năng suất sản xuất của trang trại; các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất sản xuất heo nái và một số giải pháp tăng năng suất sản xuất của trang trại chăn nuôi heo nái sinh sản. 1. Chu kỳ lứa đẻ của heo nái trong trang trại là gì? Chu kỳ lứa đẻ (Farrowing Interval) là một trong những thông số trong sản xuất chăn nuôi heo thường được sử dụng là một chỉ số phản ánh hiệu quả sản xuất nái sinh sản của trang trại. Chu kỳ lứa đẻ là số ngày trung bình từ lứa đẻ lần này đến lứa đẻ lần kế tiếp của nái sinh sản bao gồm thời gian mang thai, thời gian nái nuôi con và thời gian lên giống sau cai sữa. Chu kỳ đẻ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng heo con sau cai sữa của mỗi nái trong năm. Trong thực tế, Chu kỳ lứa đẻ của nái hậu bị ngắn hơn chu kỳ lứa đẻ của nái rạ (nái đẻ từ lứa thứ 2 trở đi). Chu kỳ đẻ có thể được tính cho từng cá thể heo nái và cho toàn bộ trang trại. Đối với một cá thể heo nái, Chu kỳ đẻ bằng số ngày mang thai cộng số ngày nuôi con cộng số ngày chờ lên giống sau cai sữa. Ví dụ nái có số ngày mang thai 115 ngày, số ngày nuôi con 25 ngày, số ngày lên giống sau cai sữa 5 ngày thì Chu kỳ đẻ của nái như sau: Chu kỳ lứa đẻ nái = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày lên giống sau cai sữa = 145 ngày. Chu kỳ lứa đẻ của trang trại bằng bình quân gia quyền chu kỳ lứa đẻ của từng nái. Giả sử một trại có 600 nái sinh sản, nếu 600 nái đều có số ngày mang thai, ngày nuôi con và ngày lên giống như nhau thì Chu ky lứa đẻ của nái trong đàn là 145 ngày. Giả sử trong một lý do nào đó trong đó 500 nái có cùng Chu kỳ lứa đẻ là 145 ngày (ví dụ trên), và trong đó có 100 nái có Chu kỳ lứa đẻ tăng lên thêm 21 ngày (145 + 21 ngày). Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ của trại được tính như sau: (145 ngày x 500 nái ) + (166 x 100 nái) Chu kỳ lứa đẻ trang trại = ——————————————– = 147.1 ngày (1) Tổng 600 nái Như vậy chu kỳ ngày đẻ của trại tăng lên 2.1 ngày (147.1 – 145) 2. Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại Hệ số lứa đẻ/nái/năm của một nái là số lứa đẻ của nái trong một năm. Chúng ta có thể tính hệ số lứa đẻ/nái/năm cho từng nái và cho cả trại. Công thức tính hệ số lứa đẻ/nái/năm từng nái và chung cả trại được tính như sau:
Hệ số lứa đẻ/nái/năm = 365 ngày/Chu kỳ lứa đẻ của nái (2)
Hệ số lứa đẻ/nái/năm của Trang trại = 365 ngày/Chu kỳ lứa đẻ trang trại (3) Ví dụ: Một trang trại có 600 heo nái sinh sản. Chu kỳ lứa đẻ của một nái bằng = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày thời gian từ cai sữa đến lên giống = 145 ngày.
365 ngày Hệ số lứa đẻ/nái/năm trang trại là = —————- = 2.48 lứa/nái/năm (4) 147.1 ngày (Ghi chú: chu kỳ lứa đẻ của trại 147.1 ngày được tính theo công thức (1)) Đối với 100 nái chậm lên giống (tăng thêm 21 ngày) có hệ số lứa đẻ/nái/năm là 2.20 (365 ngày/166 chu kỳ đẻ). Trường hợp này cũng giống như trường hợp nái khi nái không bầu hoặc nái sẩy thai sẽ làm ảnh hưởng đến năng suất của trại. Vì làm giảm số lứa/năm của nái và đồng nghĩa với giảm số heo con/năm. Trong thực tế, nếu chúng ta ngoại suy ví dụ trên với một trang trại nái sản trong một thời gian nhất định, chu kỳ lứa đẻ sẽ là tổng trung bình thời gian của chu kỳ cộng với trung bình thời gian cho con bú (thời gian heo con theo mẹ) và cộng với thời gian từ cai sửa đến phối và đậu thai trong suốt quãng thời gian này. Ngoài ra, chúng có cách thứ hai tính toán thông số này bằng cách dựa vào tổng số lần đẻ của nái/năm. Ví dụ: nếu chúng ta biết số lứa đẻ của trại trong 6 tháng vừa qua và tổng số trung bình của đàn nái trong giai đoạn này thì áp dụng công thức như sau: Tổng số lứa đẻ của trong 6 tháng * 2 Chu kỳ đẻ trung bình của nái/năm = ————————————————- Tổng số trung bình đàn nái trong 6 tháng Công thức này có vẻ thực tế hơn công thức trên vì nó dựa vào số liệu thực tế trong 6 tháng đầu của trại để suy tính chu kỳ trung bình đẻ của nái/năm. Tuy nhiên, công thức này dựa vào số liệu của 6 tháng sau cũng giống như 6 tháng trước đó. Nếu 6 tháng sau có biến động lớn trong đàn nái thì độ chính xác sẽ bị giảm. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến Chu kỳ lứa đẻ
4. Sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ đến năng suất của trại Để thấy được sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ đến năng suất sản xuất của trang trại (số heo con cai sữa/năm) chúng ta xem ví dụ dưới đây. Giả sử một trại có bình quân số con heo con cai sữa/lứa là 10 con. Chúng ta xem xét sự khác biệt năng suất khi Chu kỳ lứa đẻ thay đổi:
Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 365/151 = 2.42 lứa/nái/năm Tổng số heo con cai sữa/nái/năm: 2.42 *10 con = 24.20 heo con cai sữa /nái/năm.
Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 365 ngày/158 ngày = 2.31 lứa/nái/năm Tổng số heo con cai sữa/nái/năm: 2.31 *10 con = 23.1 heo con cai sữa /nái/năm. Qua ví dụ trên, ta thấy khi Chu kỳ lứa đẻ tăng thêm 7 ngày thì sẽ giảm 1.1 con heo con cai sữa/nái/năm. Giả sử trại có 600 nái sinh sản, thì tổng số heo con cai sữa của trại sẽ giảm là 660 con heo con cai sữa/năm (600 nái x 1.1 con = 660), tương đương 94.28 con heo con cai sữa tính trên mỗi ngày tăng thêm trong Chu kỳ lứa đẻ. Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ có ảnh hưởng lớn đến của năng suất sản xuất của trang trại. Do đó, chủ trang trại cần phải giảm Chu kỳ lứa đẻ của trang trại. 5. Một số nhân tố ảnh hưởng tới Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại Trong các giai đoạn sản xuất của nái thì thời gian mang thai ít biến động và thường dao động từ 112 đến 116 ngày. Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của từng nái và chung của Trại bị ảnh hưởng bởi một số chỉ tiêu: Số ngày nuôi con, số ngày lên giống sau cai sữa. Dưới đây xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố đến Chu kỳ lứa đẻ và Hệ số lứa đẻ/nái/năm:
Thời gian nuôi con ảnh hưởng rất lớn đến Chu kỳ lứa đẻ và Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại và ảnh hưởng đến năng suất của trang trại. Khi tăng một ngày nuôi con thì Chu kỳ lứa đẻ tăng thêm một ngày nhưng Hệ số lứa đẻ/nái/năm của Trang trại giảm đi gần 1 phần trăm. Đây là một trong những nhược điểm của việc tăng số ngày nuôi con (ngày cai sữa). Tuy nhiên, trên thực tế nếu tăng số ngày nuôi con thì trọng lượng heo con cai sữa tốt hơn. Vì vậy trang trại cần giảm số ngày nuôi con nhưng vẫn đảm bảo được trọng lượng heo con cai sữa tốt.
Thông số này cũng có ảnh hưởng lớn đến chu kỳ lứa đẻ của nái và chu kỳ lứa đẻ của Trang trại. Chủ yếu bởi hai chỉ số: khoảng thời gian cai sữa – phối giống và các tổn thất sinh sản do sẩy thai và nái không bầu… 3)Thời gian nái sau cai sữa đến lên giống: Nếu khoảng thời gian này càng dài thì Chu kỳ lứa đẻ càng lớn. Do vậy, Chủ trang trại cần phải giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ nái chậm lên giống (không quá 7 ngày). Nếu nái sau 7 ngày không lên giống sau cai sữa thì nái đó được xếp loại nái có “vấn đề” và cần có giải pháp xử lý kịp thời. 4)Vấn đề sinh sản (sẩy thai, không bầu): Như chúng ta đã biết, mỗi khi nái có “vấn đề” sinh sản sẽ đưa đến khoảng thời gian đẻ tệ hơn, số ngày không làm việc (NPD) của nái sẽ lớn hơn. Ví dụ, một con nái bị sẩy thai ở gian đoạn 55 ngày sau khi phối và sau đó được phối lại sau 25 ngày. Như vậy tổng số ngày nái không làm việc là 80 ngày, điều này sẽ ảnh hưởng đến khoảng thời gian đẻ nhiều hơn 4 lần so với nái lên giống sau 20 ngày. Do vậy, chủ trang trại cần làm giảm số ngày không làm việc (NPD) của nái và của toàn trang trại càng thấp càng tốt. 6. Một số giải pháp giảm Chu kỳ lứa đẻ Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp giảm Chu kỳ lứa đẻ:
Tóm lại, với giá thịt heo hơi và heo giống hiên nay xuống quá thấp, người chăn nuôi đang lỗ nặng. Vì thế người chăn nuôi cần nên tăng năng suất và giảm chí phi, bằng cách chú ý đến Chu kỳ đẻ của trại, phân tích và truy suất các nguyên nhân làm ảnh hưởng xấu và từ đó cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục hậu quả. Trong tình trạng chăn nuôi tại Việt nam hiện nay Chu kỳ đẻ trung bình khoảng từ 2.1 đến 2.35, nếu chúng ta biết cách quản lý tốt hệ số này có thể tăng lên từ 2.45 đến 2.55./. |