Công văn số 4815 tct-cs ngày 18 10 2023 năm 2024

Xăng dầu

Bảo hiểm nhân thọ - Phi nhân thọ

Bảo hiểm y tế

Khí hóa lỏng

Dầu khí

Doanh nghiệp

Đất đai-Nhà ở

Thuế-Phí-Lệ phí

Bảo hiểm

Lao động-Tiền lương

Thương mại-Quảng cáo

Xuất nhập khẩu

Tài chính-Ngân hàng

Y tế-Sức khỏe

Cán bộ-Công chức-Viên chức

Giáo dục-Đào tạo-Dạy nghề

Tài nguyên-Môi trường

Xây dựng

Thông tin-Truyền thông

Giao thông

Hành chính

Tư pháp-Hộ tịch

Chính sách

Khoa học-Công nghệ

An ninh trật tự

Tòa án

Đầu tư

Công nghiệp

Lĩnh vực khác

Hải quan

Cơ cấu tổ chức

Vi phạm hành chính

Sở hữu trí tuệ

Quốc phòng

Thủy hải sản

Hàng hải

Chứng khoán

Kế toán-Kiểm toán

Xuất nhập cảnh

Cư trú-Hộ khẩu

An ninh quốc gia

Tiết kiệm-Phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Thực phẩm-Dược phẩm

Ngoại giao

Cổ phần-Cổ phần hoá

Địa giới hành chính

Thi đua-Khen thưởng-Kỷ luật

COVID-19

Báo chí-Truyền hình

Khiếu nại-Tố cáo

Đấu thầu-Cạnh tranh

Điện lực

Hôn nhân gia đình

Dân sự

Hình sự

Nông nghiệp-Lâm nghiệp

Văn hóa-Thể thao-Du lịch

Hóa chất

Hàng không

Tổng cục Thuế nhận được công văn số 61169/CTHN-TTHT ngày 21/8/2023, công văn số 58994/CTHN-TTHT của Cục Thuế thành phố Hà Nội và công văn số 14766/CTDON-TTHT của Cục Thuế tỉnh Đồng Nai về hóa đơn GTGT. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 5 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định về thời điểm xác định thuế GTGT;

Căn cứ khoản 1 Điều 8 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thời điểm xác định thuế GTGT;

Căn cứ khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định về nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ;

Căn cứ Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về thời điểm lập hóa đơn;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định về xử lý hóa đơn có sai sót;

Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 7 Thông tư số 78/2021/TT-BTC ngày 17/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn về xử lý hóa đơn điện tử, bảng tổng hợp dữ liệu hóa đơn điện tử đã gửi cơ quan thuế có sai sót trong một số trường hợp.

Căn cứ quy định và hướng dẫn nêu trên, trường hợp người bán nhận lại hàng hóa trả lại một phần hoặc toàn bộ thì thực hiện lập hóa đơn điều chỉnh giảm hoặc thay thế cho hóa đơn đã lập theo quy định tại khoản 1 Điều 4 và điểm b khoản 2 Điều 19 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ.

Đối với kê khai bổ sung đối với hóa đơn điều chỉnh, đề nghị Cục Thuế căn cứ các quy định nêu trên và nghiên cứu nội dung hướng dẫn tại công văn số 2546/TCT-CS ngày 22/6/2023 (bản photo công văn đính kèm).

Đối với vướng mắc của Cục Thuế, Bộ Tài chính đã có công văn số 9206/BTC-TCT ngày 29/8/2023 lấy ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ; cơ quan Chính phủ; UBTWMTTQ Việt Nam; UBND các tỉnh, thành phố; Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123/2020/NĐ-CP về hóa đơn, chứng từ và đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ để triển khai lấy ý kiến rộng rãi.

3322/CT-KTT ngày 26/08/2016 của Cục Thuế tỉnh Gia Lai về việc doanh nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khác vay, mượn tiền nhưng không tính lãi. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

Tại Khoản 2 Điều 36 Chương IV Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về nguyên tắc ấn định thuế như sau:

“2. Cơ quan quản lý thuế ấn định số thuế phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp”.

Tại Điểm e Khoản 1 Điều 37 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 nêu trên quy định người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai bị ấn định thuế trong trường hợp:

Tổng cục Thuế nhận được công văn số 3081/CT-KTT ngày 08/08/2016 và công văn số 3322/CT-KTT ngày 26/08/2016 của Cục Thuế tỉnh Gia Lai về việc doanh nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khác vay, mượn tiền nhưng không tính lãi. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:

Tại Khoản 2 Điều 36 Chương IV Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về nguyên tắc ấn định thuế như sau:

“2. Cơ quan quản lý thuế ấn định số thuế phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp”.

Tại Điểm e Khoản 1 Điều 37 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 nêu trên quy định người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai bị ấn định thuế trong trường hợp:

“Mua, bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ không theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường;