Xin chào các em! Trong chuyên mục soạn văn ngày hôm nay, Soạn Văn sẽ giới thiệu với các em bài soạn: Cô Tô. Đây là một văn bản rất hay trong chương trình Ngữ văn 6 Tập 2. Hi vọng các em có thể tham khảo để chuẩn bị cho tiết học trên lớp thật tốt nhé! I. Tác giả, tác phẩm1. Tác giả (mời các em tham khảo SGK Ngữ văn 6 tập 2) 2. Tác phẩm * Xuất xứ: Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài ký Cô Tô – tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao động ở vùng đảo Cô Tô mà Nguyễn Tuân thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo. * Thể loại: Văn bản Cô Tô thuộc thể loại kí. Kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút,… II. Hướng dẫn soạn bàiCâu 1: Bài văn Cô Tô có thể được chia thành 3 đoạn:
Câu 2: Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua được miêu tả qua những từ ngữ, hình ảnh rất đặc biệt:
Những từ ngữ đó có tính gợi tả, cho thấy màu sắc trong sáng, khung cảnh bao la, vẻ đẹp tươi ngời của đảo Cô Tô. Mở đầu bài kí này, ta bắt gặp sự sống trong dạng thể vừa rất quen vừa mới sinh nở, rất lạ. Câu 3: Đoạn tả cảnh mặt trời mọc trên biển là một bức tranh rất đẹp được tác giả thể hiện qua những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc và những hình ảnh so sánh:
Qua cách chọn lọc chính xác những hình ảnh, từ ngữ so sánh, tác giả đã cho người đọc thấy thiên nhiên nơi đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời, thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ. Câu 4: Trong đoạn cuối bài văn, cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo đã được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh:
=> Hình ảnh so sánh ngang bằng và không ngang bằng đã tạo nên một cảm nhận hết sức kỳ lạ. Giếng mà lại có quan hệ với bến và chợ ở đất liền!
=> Hàng loạt các phép so sánh đã cho ta thấy cuộc sống nơi đây thật bình yên, giản dị và hạnh phúc. Đặc biệt, hình ảnh người anh hùng lao động Châu Hòa Mãn đi quảy nước cùng mọi người, hòa lẫn vào không khí náo nức, khẩn trương của một chuyến ra khơi. Chính hình ảnh đầy chất thơ về người mẹ trẻ địu con đã truyền cho độc giả hơi ấm nóng của sự sống, của tình yêu với con người.
Nguyễn Tuân (1910 - 1987)
- Phong cách sáng tác: + Nguyễn Tuân là một nhà văn có cá tính, phong cách nghệ thuật độc đáo, tóm gọn trong một chữ ngông. Có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ: suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa và mĩ thuật. + Trước Cách mạng tháng Tám: chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời”, và “đời sống truỵ lạc”. + Sau Cách mạng, ông đem ngòi bút phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. - Các tác phẩm chính: + Trước Cách mạng: Ngọn đèn dầu lạc (1939); Vang bóng một thời (1940); Chiếc lư đồng mắt cua (1941); Tàn đèn dầu lạc (1941); Một chuyến đi (1938); Tùy bút (1941); Thiếu quê hương (1940); Tóc chị Hoài (1943); Tùy bút II (1943);... + Sau Cách mạng: Tùy bút kháng chiến (1955); Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956); Tùy bút Sông Đà (1960); Kí Cô Tô (1976); …
Tác phẩmHoàn cảnh sáng tácVăn bản được sáng tác năm 1976, nhân một chuyến ra thăm đảo Cô Tô (Quảng Ninh). Xuất xứ
Kí (Khái niệm: Kí là thể loại ghi chép sự việc, cảnh vật, con người mà nhà văn mắt thấy tai nghe.) Phương thức biểu đạt chính Miêu tả Bố cục Bài văn có thể chia làm ba phần:
NỘI DUNG [edit]1. Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua
- Một ngày trong trẻo và sáng sủa. - Bầu trời: trong sáng "sau mỗi lần giông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy". Vẻ trong sáng đó là hình ảnh quen thuộc ở nơi đây. - Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa." : sau trận bão, cảnh vật hiện lên với màu sắc tươi sáng, đầy sức sống "xanh mượt", "lam biếc", "vàng giòn". Tác giả khéo léo đưa các phụ từ "thêm", "lại", "hơn" kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc và nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để nhấn mạnh vẻ đẹp trong trẻo, tươi sáng và tràn đầy sức sống của quần đảo Cô Tô sau trận bão. - Hình ảnh chọn lọc: bầu trời, nước biển, cây trên núi đảo, bãi cát,… - Dùng tính từ đặc tả màu sắc và ánh sáng: trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn,… - Điểm nhìn từ trên cao: trên nóc đồn - Kết cấu câu văn đặc tả nhấn mạnh: thêm, hơn
Tiểu kết: Khung cảnh Cô Tô sau bão hiện lên thật trong sáng, tinh khôi. Với những từ ngữ và hình ảnh miêu tả đặc sắc, người đọc có thể hình dung và cảm nhận được vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô. 2. Cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ khi mặt trời mọc trên biển
- Hình ảnh so sánh "chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi" vẽ ra bức phông nền trong trẻo, tinh khiết cho bức tranh bình minh ở hòn đảo Cô Tô lúc bấy giờ. - Phía chân trời đằng Đông, "mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết". Tác giả thật tài tình khi miêu tả quá trình mặt trời mọc bằng từ ngữ "nhú lên". Câu văn gợi hình ảnh một nửa mặt trời đang lửng lơ giữa chân trời - mặt biển. - Hình ảnh so sánh độc đáo "tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn" không những vẽ được hình khối đầy đặn, màu sắc êm dịu mà còn gợi đến cả sức sống mặt trời ban cho trái đất. - Vẻ đẹp kì ảo, hùng vĩ của mặt trời lại được hiện lên qua câu văn "Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đường bệ đặt lên một bâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng". - Cảnh tượng mặt trời mọc "y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông". Qua cách so sánh này, có thể thấy thiên nhiên và con người nơi đây được ngợi ca với vẻ trang trọng, uy nghi, lộng lẫy. - Sử dụng từ ngữ chính xác, tinh tế - Lối so sánh thật rực rỡ, tráng lệ Tiểu kết: Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ. 3. Cảnh sinh hoạt và lao động khẩn trương, tấp nập của người dân trên đảo
- Quanh giếng nước ngọt: vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. - Chỗ bãi đá: bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp. - Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về.
- Sử dụng hình ảnh so sánh - Sử dụng lượng từ chỉ ý nghĩa toàn thể - Sử dụng quan hệ từ và điệp từ Tiểu kết: Đoạn văn là sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân – “người đi tìm cái đẹp” toàn bích và hài hòa. Có lẽ vì thế mà khung cảnh sinh hoạt, lao động của con người nơi đây rất khẩn trương, tấp nập, đầy sức sống mà không kém phần thanh bình, yên ả. Kết luận: Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ điêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Qua đó, chúng ta thấy được lòng yêu mến và tự hào của tác giả với vùng đảo này. Bài văn cũng cho chúng ta biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc – quần đảo Cô Tô. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT [edit]
Page 2
Không có sự kiện nào sắp diễn ra Page 3
|