Chuùng nào con biết ơn chừng đó còn hạnh phúc

Một kết quả chúng ta có được đều xuất phát từ yếu tố nội lực bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Một quả sồi sẽ không bao giờ chờ thành cây sồi nếu không có các điều kiện như đất, nước, ánh sáng.

Vậy có nghĩa là chúng ta sẽ không thể đạt được điều gì chỉ nhờ một yếu tố là nội lực (dù yếu tố này rất quan trọng).

Một người đứng trên thành công và tự mãn với cái mình đạt được, tự cho là do mình tài giỏi thì đó là lúc người đó sẽ xuống dốc.

Tự Mãn là một cái mỏ neo rất lớn khiến tôi và bạn không thể tiếp bước.

Vậy một người học trò hãy biết ơn thầy cô, một đứa con hãy biết ơn cha mẹ, một nhân viên hãy biết ơn công ty, một người bán hàng hãy biết ơn khách hàng bởi chính họ là những người đang tạo ra thành công của chúng ta có được ngày hôm nay.

Nhưng nếu cuộc sống đem lại cho bạn những nghịch cảnh, bất mãn, thù địch thì sao bạn phải cảm ơn cuộc đời? Thật là phi lý phải không bạn?

Chuùng nào con biết ơn chừng đó còn hạnh phúc

Tôi muốn đưa bạn 2 câu chuyện để chúng ta cùng xem những thuận và nghịch cảnh sẽ giúp ích gì cho chúng ta?

Chuyện 1: Sư tử mẹ có 2 con sư tử, khi các chú sư tử con bắt đầu trưởng thành, sư tử mẹ cho chúng đi săn cùng mình. Khi hai chú sư tử con đang mải chạy đuổi theo con mồi thì chú sư tử anh bị vất ngã và bị thương. Sau đợt săn mồi ấy chú sư tử anh được mẹ cho ở nhà và không còn phải đi săn nữa. Dần già chú sư tử anh chở nên nặng nề và chậm chạp không thể nào săn mồi được nữa. Đến khi sư tử mẹ chết đi, sư tử anh phải tự mình đi kiếm mồi. Nhưng nó chạy đuổi thế nào cũng không bắt được con mồi. Sau 5 ngày săn mồi không được miếng nào, vừa đói vừa mệt nó gục xuống đất, trước khi nó chết sư tử anh gào lên tiếng cuối cùng “Mẹ ơi con hận mẹ”!

Chuyện 2: Bé được mẹ cho một cái kén có chú nhộng bên trong đang ngủ đợi ngày cắn kén chui ra. Đêm hôm đó cái kén lúc lắc mạnh rồi cái kén được cắn một lỗ nhỏ và cái đầu của con bướm nhô ra. Bé vui mừng quá quan sát, sau cả tiếng đồng hồ chú bướm vẫn không thể nào thoát ra khỏi cái kén được. Chú bướm cứ ngọ ngậy bên này rồi bên kia nhưng vẫn chỉ nhích ra được một phần ba cái mình. Chốc chốc bướm lại nghỉ một lúc để lấy lại sức sau đó lại tiếp tục. Phần vị sốt ruột, phần vì lo con bướm sẽ không thoát ra được nên bé đã khẽ cắt cho cái lỗ được to hơn rồi kéo bướm ra khỏi kén. Nhưng tiếc thay đôi cánh của bướm đã không thể xòe rộng và cất cánh bay lên được nữa. Nõ mãi nhăn nheo và teo tóp, khiến bé thấy chán quá và vứt luôn chú bướm đi!

Qua hai câu chuyện trên chúng ta thấy những thuận cảnh chưa chắc đã tốt, những nghịch cảnh chưa chắc đã xấu. Chỉ có nhờ nhiệt độ và áp xuất cao thì viên kim cương mới hình thành, chỉ có tự mình phá vỡ cái vỏ cứng chắc thì con bướm mới có thể bay cao, chỉ có tự mình vấp ngã chú sư tử mới có thể hoàn thiện kỹ năng để không bị chết đói trong tương lai.

Đên đây thì tôi và bạn cũng sẽ phải cùng đồng tình rằng thử thách, khó khăn là điều sẽ luôn có và cũng là cần thiết trong cuộc sống phải không bạn?

Chả thế mà Đức Phật nói Khổ là Bồ Đề, câu này ý rằng chính Khổ Đau là ông thầy dạy Đạo chúng ta tốt nhất vậy!

Hãy cám ơn và đón nhận tất cả những điều đến với chúng ta dù là thuận hay nghịch cảnh!

Khi chúng ta biết cám ơn thì khi thành công chúng ta bớt Tự Mãn, khi thất bại chúng ta sẽ không mất ý chí và Hy Vọng.

Thế đấy bạn khi nói “Cám Ơn” chúng ta đã có ngay một cái nhìn tích cực và lạc quan rồi phải không nào?

Khi bị khách hàng Từ Chối mình cũng phải cảm ơn họ vì họ đã cho mình biết thêm lý do, cho mình biết thêm cách vượt qua các lý do đó.

Khi bị mắc bệnh mình mới biết được sức khỏe là quan trọng thế nào và vì thế mình phải biết bảo vệ và giữ gìn nó.

Khi bạn quá bận rộn bạn mới biết thời gian quý như vàng là một câu nói rất chính xác. Bạn sẽ không còn phung phí tuổi thanh xuân của mình nữa.

Và khi bạn biết ơn bạn sẽ đón nhận mọi thứ với một tâm thái bình an và hạnh phúc!

Sư Viên Minh từng nói với tôi một câu này: Hạnh Phúc là một Thái Độ chứ không phải là một Trạng Thái.

(Chắc các bạn giờ đã hiểu nó rồi phải không nào?)

Sinh ra là một con người đã là một ân huệ lớn, sinh ra khi này và được biết đến giáo lý của một vị Phật vẫn còn đang được lưu truyền thì quả là phước báu to lớn biết nhường nào!

Bài hát này tôi rất yêu thích và bạn chắc chắn sẽ cũng thích nó. Hãy cùng thưởng thức nhé:

Hạnh Phúc Đơn Sơ – Ca Sĩ Việt Hùng.

Xin cảm ơn cuộc đời xin cảm ơn mọi người!

Hoài Chân

PS: Quý vị nào muốn có các tài liệu sách vở Audio và Ebook của Phật giáo Nguyên Thủy thì có thể để lại thông dưới. Mình sẽ dần dần gửi các tài liệu mình đang có cho quý vị.

“Thanksgiving Day” là ngày lễ tạ ơn theo truyền thống của người Mỹ. Tại Làng Mai, hàng năm, chúng ta đều tổ chức lễ tạ ơn, nhưng với một tinh thần khác. Tinh thần của sự thực tập làm lớn lên lòng biết ơn để nuôi dưỡng niềm hạnh phúc trong đời sống nơi mỗi chúng ta. Bởi khi nào lòng biết ơn còn có mặt thì hạnh phúc vẫn còn. Và người đã cạn kiệt lòng biết ơn, hạnh phúc không thể còn có được.

Theo truyền thống Cơ Đốc Giáo, biết ơn được hiểu là biết ơn Thượng Đế, biết ơn Chúa. Bởi theo truyền thống Cơ Đốc Giáo thì Thượng Đế đã sinh ra mình, sinh ra vạn vật, và tất cả những gì cần thiết cho cuộc sống. Còn trong truyền thống đạo Bụt, sự biết ơn được hiểu như tứ ân: cha mẹ, thầy tổ, bạn bè và mọi loài. Vì cha mẹ cho ta hình hài này, thầy tổ cho ta đời sống tâm linh, bạn bè là những người đồng hành, và nâng đỡ ta trong những lúc khó khăn, các loài hữu tình và vô tình khác mang lại cho ta những điều kiện cần thiết cho cuộc sống. Ta biết rằng, tổ tiên của mình không chỉ là loài người. Chúng ta có chung nguồn gốc với các loài động vật, thực vật và cả những loài khoáng vật. Bởi con người xuất hiện rất muộn trong lịch sử hình thành sự sống. Do vậy, lòng biết ơn không chỉ hướng đến loài người, mà cả mọi loài. Đối tượng của lòng biết ơn trong đạo Bụt rất lớn.

Người Phương Đông có quan niệm phú tải chi ân – trời che đất chở. Bầu trời ôm lấy mình, che chở mình. Còn mặt đất chuyên chở mình, là nơi cư trú của mình. Trên thì che, mà dưới thì chở – thiên địa phú tải chi ân. Đó là ý niệm về lòng biết ơn của người Đông phương. Nếu có tuệ giác, mình thấy được mọi thứ hiện hữu xung quanh đều có ơn đối với mình. Khi nhìn nước chảy từ vòi ra, mình ý thức rõ: “Nước từ nguồn suối cao. Nước từ lòng đất sâu. Nước mầu nhiệm tuôn chảy. Ơn nước luôn tràn đầy.” Trong mình sẽ dâng lên niềm biết ơn, nếu mình biết quán chiếu như vậy, rồi mình nhìn sâu để biết ơn không khí, lửa,…Niềm biết ơn của mình sẽ bao trùm vạn hữu vũ trụ.

Trong ngày tạ ơn, người Mỹ thường có truyền thống trang hoàng những trái bí rợ rất lớn, những trái dưa, những trái bắp. Đây là những quà tặng của đất trời. Quà tặng ấy ta được tiếp nhận mỗi ngày. Ta cần thể hiện lòng biết ơn 24 giờ mỗi ngày. Ngày tạ ơn chỉ là biểu trưng cho lòng biết ơn ấy. Cần thực tập để lòng biết ơn trải rộng trên khắp mọi loài. Lòng biết ơn còn bị giới hạn, chưa phải là lòng biết ơn đích thực. Chúng ta thường nghĩ, cha mẹ là người nuôi dưỡng ta nên vóc nên hình. Nhưng nhìn sâu hơn, ta có thể thấy, góp công vào sự dưỡng dục ấy còn có rất nhiều yếu tố như đất, trời,… Nếu không có đất, có mặt trời sao có được lúa gạo, sao có được bông để dệt vải,…Do vậy, ta cũng có thể gọi, mặt trời là cha chung của muôn loài, trái đất là mẹ chung của muôn loài.

Chuùng nào con biết ơn chừng đó còn hạnh phúc

Người trao truyền, vật trao tryền và người tiếp nhận

Trong triết lý của đạo Bụt, chuyện cho và nhận được nhận thức rất sâu sắc. Khi quán chiếu sâu sắc, ta thấy rằng trong quan hệ cho – nhận, người cho với người nhận không phải là hai thực tại riêng biệt mà người cho cũng là người nhận và người nhận cũng là người cho. Thực tế là vậy, nhưng ít khi ta thấy được điều này. Ví dụ, tuy ta biết cha mẹ là người trao truyền cho ta hình hài này nhưng ta vẫn có khuynh hướng nghĩ rằng ta và cha mẹ là hai thực thể riêng biệt. Cha mẹ là một thực thể khác, con là một thực thể khác. Thấy như thế thì chưa đúng với tinh thần đạo Bụt. Nhìn kỹ, hình hài này chứa đựng cả cha mẹ. Cha mẹ có mặt trong từng tế bào cơ thể của con. “Con có cha có mẹ. Cha mẹ có trong con”. Con mang đầy đủ những hạt giống và nhiễm sắc thể của cha mẹ. Người trao truyền và vật trao truyền là một. Đây gọi là cái nhìn Bất nhị, một giáo l‎ý rất thâm sâu trong đạo Bụt.

Nếu đem cái nhìn bất nhị này áp dụng vào trường hợp của những người bạn Cơ đốc giáo và Do Thái giáo ta sẽ có được những cái thấy rất hữu ích. Các bạn Cơ đốc giáo và Do Thái giáo nếu quán chiếu thật kỹ sẽ thấy được mình và Thượng đế không phải là hai thực thể riêng biệt. Ta ở trong Thượng đế và Thượng đế ở trong ta. Đối với vấn đề tạo hóa và tạo vật cũng vậy.Ta hay quan niệm rằng tạo hóa và tạo vật là khác nhau. Nhưng nếu nhìn kỹ vào tạo hóa sẽ thấy được tạo vật ở trong, và ngược lại. Nếu không có liên hệ với nhau thì làm sao tạo hoá làm ra tạo vật được? Nếu không có liên hệ, làm sao có sự trao truyền? Trong truyền thống Cơ đốc, nhiều vị tu sĩ đã thấy được điều này là nhờ có cái nhìn Bất nhị. Họ không đi tìm Thượng đế và Chúa bên ngoài họ bởi họ đã thấy Thượng đế và Chúa ngay bên trong họ. Kinh Phúc âm có dạy rằng : “Chúa, Thượng đế nằm ở trong trái tim của mình chứ không phải là một thực thể bên ngoài mình”. Do vậy, người trao truyền chính là vật trao truyền vì người trao truyền đã trao truyền chính mình cho người tiếp nhận. Đứng về phía người tiếp nhận vật trao truyền, họ cũng chính là vật trao truyền. Tuy nói rằng sự trao truyền có ba yếu tố: người trao truyền, người tiếp nhận, và vật trao truyền nhưng kỳ thực, ba yếu tố đó chỉ là một. Cái này được gọi là Tam luân không tịch, tức là ba cái không có sự riêng biệt. Người trao truyền, vật trao truyền và người tiếp nhận nương nhau mà có. Một trong ba yếu tố vắng mặt thì hai yếu tố còn lại không thể được hình thành.

Ngày Tạ Ơn là cơ hội để thể hiện lòng biết ơn. Nhưng lòng biết ơn ấy có sâu sắc hay không còn tùy thuộc vào cái thấy về lòng biết ơn có sâu sắc hay không. Cái thấy sâu sắc nhất chính là cái thấy Bất nhị, người mình mang ơn và mình là một. Trong ngày biết ơn, không phải chỉ ý thức đến sự may mắn của mình mà còn phải quán chiếu cho sâu sắc vấn đề này để đạt đến tuệ giác Bất nhị.

Trong truyền thống đạo Bụt có dùng danh từ pháp để chỉ sự vật là những đối tượng của tâm thức. Pháp đây không có nghĩa là giáo pháp. Ví dụ: cây bút được gọi là một pháp, con mắt là một pháp, trái bí ngô là một pháp. Cơ thể ta có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Và đối tượng của sáu căn là sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của tai, hương là đối tượng của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của thân, và pháp là đối tượng của ý. Do vậy, chữ pháp có nghĩa là những cái ta nhận thức được.

Khi ta có tri giác, cái tri giác đó có hai phần: chủ thể và đối tượng. Chủ thể và đối tượng phát hiện cùng một lúc. Khi nói thấy, luôn luôn phải có đối tượng của cái thấy ấy. Thấy cái gì? Tương tự với nghe, ngửi, nếm, xúc và ý. Đây là vấn đề rất khó trong đạo Bụt nhưng lại hết sức căn bản. Vì khi hiểu được điều này mới có thể hiểu được các giáo lý của Bụt. Ví dụ, khi nhìn trái bí ta cần tập nhận biết trái bí là đối tượng của ý và không tách rời khỏi tâm. Đây cũng là vấn đề Bất nhị, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không độc lập mà gắn liền với nhau. Thực tập điều này hơi khó, nhưng ta có thể đạt được. Ngành khoa học lượng tử đã bắt đầu hé mở được vấn đề này. Các nhà khoa học đã thấy được rằng đối tượng nghiên cứu của ta ở đâu thì tâm mình ở đó. Tuy nhiên, họ vẫn còn bị kẹt vào ý niệm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức độc lập nhau. Đó là cái thấy nhị nguyên, một cái thấy rất thông thường của con người.

Phá vỡ được cái thấy nhị nguyên chỉ có thể nhờ vào công phu quán chiếu. Hiện nay, các nhà khoa học đang chật vật để vượt qua điều này. Và khả năng giải thoát sanh tử của các hành giả cũng đều tùy thuộc vào việc có vượt qua được hàng rào của kiến chấp nhị thủ hay không. Trong kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm có đề cập đến bốn đối tượng để quán chiếu: thân, thọ, tâm và pháp. Quán thân nơi thân, quán cảm thọ nơi cảm thọ, quán tâm nơi tâm, quán đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức. Lĩnh vực quán chiếu thứ tư là pháp. Pháp là đối tượng của tâm, không tách rời khỏi tâm, không ở ngoài tâm.

Chuùng nào con biết ơn chừng đó còn hạnh phúc

Khổ đau có mặt nhưng hạnh phúc cũng có mặt

Chúng ta có nói căng thẳng là yếu tố luôn góp mặt trong những nguyên nhân gây ra những khổ đau như lo lắng, sợ hãi, bạo động, gia đình tan vỡ, ly dị, tự tử, chiến tranh, xung đột, khủng bố, ô nhiễm môi trường, địa cầu bị hâm nóng… Còn rất nhiều nỗi khổ đau trong lòng mỗi người, mà chúng ta không thể kể hết ở đây.

Theo nhận thức của những nhà chính trị, những nhà kinh tế, những nhà cách mạng thì khổ là nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, bất công xã hội, nô lệ, kỳ thị,… Nhưng nếu quán chiếu cho sâu, họ cũng thấy được rằng những cái mà họ cho là khổ không nằm ngoài mối quan hệ với những nỗi khổ trong tự thân. Giả sử không có nghèo đói, không có bệnh tật, không có thất nghiệp, không có bất công xã hội thì vẫn có những căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, bạo động, chiến tranh như thường. Khổ vẫn có như thường. Nếu chúng ta không bị căng thẳng, không lo lắng, không sợ hãi, không bạo động thì tự nhiên nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp sẽ được giảm bớt. Chúng ta cần phải nhìn nhận một cách sâu sắc để biết được cái nào đích thực là khổ. Ví dụ, một người tranh đấu chống nạn thất nghiệp để có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, để có tự do. Vì theo họ thì bị thất nghiệp, không có cơm ăn, áo mặc, nhà ở,… là khổ. Nhưng có thể trong họ vẫn có sự lo lắng, căng thẳng, sợ hãi, giận hờn, và họ vẫn khổ, cho dù họ có đấu tranh thành công để có được việc làm, để có được tự do.

Cho nên, cái khổ có nhiều mặt. Và khi đề cập đến tập đế, chúng ta có thể nói nó là con đường bát tà – tức là con đường không có mặt của chánh kiến, chánh tư duy. Nó là nguyên nhân đưa đến khổ đau. Nhờ biết được nguyên nhân khổ đau, ta chuyển hóa được khổ đau. Diệt đế là sự vắng mặt của khổ đau, sự vắng mặt của bóng tối. Khổ đau vắng mặt thì hạnh phúc có mặt. Bóng tối vắng mặt thì ánh sáng có mặt. Hạnh phúc là ngược lại với căng thẳng. Hạnh phúc là ngược lại với lo lắng. Hạnh phúc là ngược lại với sợ hãi. Trong hạnh phúc không thể có mặt yếu tố bạo động, yếu tố tan vỡ. Diệt đế là hạnh phúc, nhưng trong hạnh phúc thì khổ đau cũng có thể đang có mặt một phần nào đó. Công nhận khổ đế không có nghĩa là không có hạnh phúc. Công nhận có bùn không có nghĩa là không có sen. Trong giây phút hiện tại, trong ta vừa có bùn, vừa có sen; vừa có rác, vừa có hoa. Nếu nói khổ đế là một sự thật thì diệt đế cũng là một sự thật. Cuộc đời có những khổ đau, nhưng cuộc đời cũng đang có những hạnh phúc.

Sáng nay ngồi thiền, tôi cảm thấy rất hạnh phúc và hạnh phúc là một chuyện thật. Khi nói đến Tứ diệu đế, nếu nghĩ rằng Tứ diệu đế chỉ có nói tới khổ đau thôi thì không đúng. Tứ diệu đế nói rằng có khổ đau nhưng đồng thời hạnh phúc cũng đang có mặt. Nhìn cho kỹ thì khổ đau cũng đóng một vai trò nào đó để tạo dựng hạnh phúc. Vấn đề là làm thế nào để làm vơi bớt khổ đau và làm tăng trưởng hạnh phúc. Luân lý đạo đức là những nguyên tắc, những phương pháp hành động để giảm thiểu khổ đau và nuôi lớn đạo đức. Cho nên không hẳn là tiêu diệt khổ đau mới có hạnh phúc.

Vào khoảng 6 giờ sáng trên bầu trời có cả mảng sáng và mảng tối, sáng tối đan xen vào nhau. Khổ đau và hạnh phúc cũng vậy, chúng nương vào nhau. Trong tuệ giác tương tức thì cái này được làm bằng cái kia và cái kia được làm bằng cái này, “thử hữu tức bỉ hữu, thử vô tức bỉ vô” (cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không”. Giống như sen với bùn, nếu không bùn thì không có sen. Cho rằng tất cả đều là khổ là một ý niệm sai lầm. Bụt nói rằng: “Con ơi, có những khổ đau và con phải quán chiếu để chặt đứt khổ đau”. Chứ Bụt không hề nói: “Tất cả đều là khổ hết con ạ”. Nếu một nhà thần học vì thương Bụt mà tìm đủ mọi cách để chứng minh đời là khổ để cho Bụt đúng thì ông ta hại Bụt rồi. Bởi vì làm như vậy là ông ta không hiểu được lời dạy của Bụt.

Công nhận khổ đau đang cómặt và cho rằng tất cả đều là khổ là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Sai lầm đầu tiên là cho rằng mọi thứ là khổ. Sai lầm thứ hai là tưởng rằng chỉ khi nào khổ đau vắng mặt hoàn toàn thì khi ấy mới thực sự có hạnh phúc.

Tuy cuộc đời có khổ đau nhưng nhờ tu tập ta tìm được những giây phút rất hạnh phúc. Cho dù đang trong hoàn cảnh khốn khó tới mấy thì vẫn luôn còn đó những điều kiện hạnh phúc, tuy ít ỏi nhưng nó có đó. Ngược lại, nếu cho rằng đời toàn niềm vui cũng không đúng. Đời có khổ có vui, cái khổ đang đóng một vai trò nào đó để làm ra cái vui. Nếu không đói thì ta ăn sẽ không ngon. Nhờ có cái đói ta mới cảm thấy hạnh phúc khi được ăn.

Trong kinh có nói năm uẩn là khổ. Người xưa diễn tả khổ là: Sinh, già, bệnh, chết. Sinh ra là khổ, già là khổ, bệnh tật là khổ, chết là khổ. Ham muốn mà không được là khổ, ghét bỏ mà phải gần gũi là khổ, thương nhau mà phải xa lìa và năm thủ uẩn là khổ. Thủ có nghĩa là bị kẹt, bị vướng mắc vào. Uẩn là năm yếu tố tạo nên con người gồm có: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức). Nếu bị kẹt vào năm uẩn, bị dính mắc vào và cho chúng là của mình thì lúc đó mới khổ. Năm uẩn không khổ nhưng năm thủ uẩn mới khổ. Đức Thế Tôn nhờ có năm uẩn mà ngày hôm nay chúng ta mới có giáo pháp để hành trì. Ngài cũng có năm uẩn nhưng Ngài không khổ bởi vì Ngài không bị kẹt, không cho rằng năm uẩn là vật sở hữu của mình, nhờ đó nên ngài được tự do. Uẩn của ngài không phải là thủ uẩn. Các pháp không phải là khổ nhưng vì kẹt vào các pháp nên mới khổ.