Cherry blossom : hoa anh đào Lilac : hoa cà Areca spadix : hoa cau Carnation : hoa cẩm chướng Daisy : hoa cúc Peach blossom : hoa đào Gerbera : hoa đồng tiền Rose : hoa hồng Lily : hoa loa kèn Orchids : hoa lan Gladiolus : hoa lay ơn Lotus : hoa sen Marigold : hoa vạn thọ Apricot blossom : hoa mai Cockscomb : hoa mào gà Tuberose : hoa huệ Sunflower : hoa hướng dương Narcissus : hoa thuỷ tiên Snapdragon : hoa mõm chó Dahlia : hoa thược dược Day-lity : hoa hiên Camellia : hoa trà Tulip: hoa uất kim hương Chrysanthemum: hoa cúc (đại đóa) Forget-me-not: hoa lưu ly thảo (hoa đừng quên tôi) Violet: hoa đổng thảo Pansy: hoa păng-xê, hoa bướm Morning-glory: hoa bìm bìm (màu tím) Orchid : hoa lan Water lily : hoa súng Magnolia : hoa ngọc lan Hibiscus : hoa râm bụt Jasmine : hoa lài (hoa nhài) Flowercup : hoa bào Hop : hoa bia Banana inflorescense : hoa chuối Ageratum conyzoides: hoa ngũ sắc Horticulture : hoa dạ hương Confetti : hoa giấy Tuberose : hoa huệ Honeysuckle : hoa kim ngân Jessamine : hoa lài Apricot blossom : hoa mai Cockscomb: hoa mào gà Peony flower : hoa mẫu đơn White-dotted : hoa mơ Phoenix-flower : hoa phượng Milk flower : hoa sữa Climbing rose : hoa tường vi Marigold : hoa vạn thọ Hoa sữa hay còn gọi là mò cua, mò cua (danh pháp khoa học: Alstonia scholaris) là một loài thực vật nhiệt đới thường xanh thuộc chi Hoa sữa, họ La bố ma (Apocynaceae).
Cây hoa sữa (Alstonia scholaris) L. R. Br. Danh pháp đồng nghĩa[2]
Cây gỗ nhỡ, thường xanh, có thể cao tới 50m. Sinh trưởng nhịp điệu phân cành thành tầng tán. Thân cây thẳng, tròn, gốc có thể có khía nâu, vỏ nứt nẻ dọc mùn, nhựa màu trắng đục, thịt vỏ màu trắng. Lá đơn nguyên mọc chụm đầu cành từ 3-10 lá. Phiến lá hình trứng ngược, dài 10 – 25 cm, rộng 4 – 7 cm, đầu tù hoặc hơi lõm, đuôi nêm. Mặt trên phiến lá xanh bóng, mặt dưới màu xám bạc. Phiến lá có hệ gân lông chim, có từ 25-50 cặp gân thứ cấp, gân thứ cấp lệch góc so với gân chính từ 80-90o. Cuống lá từ 1–3 cm. Hoa sữa nở vào tháng 10 năm 2014 ở Mumbai, Ấn Độ Alstonia scholaris ở Viện công nghệ Ấn Độ - Kanpur Hoa sữa Cách sắp xếp của lá Hoa tự tán, bông hoa nhỏ, màu trắng đến vàng nhạt, nở từ tháng 6 đến tháng 11, có mùi thơm như hoa Dạ lý hương. Quả 2 đại, dài 25 – 30 cm, thõng xuống, mùa quả từ tháng 10 đến tháng mười hai. Hạt nhiều, nhỏ, dẹp, dài 70mm, rộng 2,5mm, mang 2 túm lông ở hai đầu, màu trắng. Bộ nhiễm sắc thể 2n = 22.[3] Cây phân bổ ở rừng hỗn giao, cũng thường được trồng quang thôn bản hoặc cây xanh dọc đường. Trong tự nhiên cây xuất hiện ở độ cao từ 200-1000m so với mực nước biển. Trên thế giới cây phân bổ ở Đông và Nam châu Á, châu Úc: Nam Trung Hoa, Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka,Campuchia, Myanma, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines, Úc(Queensland), Papua New Guinea.[4] Cây cũng được nhập trồng tại nhiều nước khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới khác. Trong Phật giáo tiểu thừa cây hoa sữa cũng được xem như là một loài cây của sự giác ngộ,[cần dẫn nguồn] nó cũng từng được Đức Phật gọi tên là Thanhankara - තණ්හංකර. Trong tiếng Sinhala nó là රුක් අත්තන. Cây hoa sữa phát triển nhanh, ít sâu bệnh, cho bóng mát quanh năm, có thể sử dụng làm cây bóng mát một cách hạn chế. Gỗ của cây hoa sữa thường nhẹ và có màu trắng, có thể dùng đóng một số đồ gia dụng như làm bút chì,[5] quan tài, nút chai.[6] Hoa sữa có mùi thơm nếu trồng với mật độ vừa phải và nồng nặc khi trồng với mật độ cao. Ở Việt Nam, một số tỉnh như Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, vào năm 1994, người dân đã gửi đơn "kiện" hoa sữa do nó được trồng dày đặc trên các đường phố, gây ảnh hưởng đến sức khỏe[7][8]
Ngoài ra, hoa sữa còn được nhắc đến trong bài hát Hà Nội 12 mùa hoa của nhạc sĩ Giáng Son.
|