TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT
KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ
GVHD : Hoàng Vĩnh Long
Đề tài:
Chính sách ngoại thương Việt Nam hiện
nay.
Lời mở đầu
Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và khu vực, nước ta đã và
đang từng bước hòa mình để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Việc
buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các
nước trên thế giới ngày càng đa dạng phong phú.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế
tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ đó, một số sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước, mà còn có khả
năng vươn ra thị trường nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập
khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước quan
tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới.
Để quản lý được các hoạt động mua bán với các nước, Nhà nước đã có nhiều
biện pháp, trong đó thuế xuất nhập khẩu là một trong những công cụ chủ yếu. Thông
qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu, chúng ta có thể nắm đủ
tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện cho nhà nước có căn cứ đề ra chính
sách ngoại thương đúng đắn, cân đối cung, cầu hàng hóa xuất nhập khẩu và cân bằng
cán cân thanh toán.
Do đó với đề tài “Chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện nay” chúng
em muốn tập trung nghiên cứu về Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Đây là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đối với ngoại thương Việt Nam. Và với xu
thế toàn cầu hóa Nhà nước cần có những điều chỉnh sao cho phù hợp với thế giới và
tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thương Việt Nam phát triển.
Trong quá trình nghiên cứu và thảo luận về đề tài, nhóm đã rất cố gắng nhưng
chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, mong được sự sửa chữa,
đóng góp quí báu của thầy và các bạn!
Xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 8
Lớp K08402A - VÀI NÉT VỀ NGOẠI THƯƠNG HIỆN NAY:
Ngoại thương nước ta trong thời gian qua đã thực sự giúp cho nền kinh tế đất nước
khai thác thế mạnh trong sản xuất hàng hóa về xuất khẩu. Ngoại thương đóng góp rất
lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thay đổi bộ mặt nền công nghiệp, dịch vụ và cả
trong sản xuất nông nghiệp nữa. Để có thể hiểu rõ chính sách ngoại thương của nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay, chúng ta sẽ cùng phân tích những điều kiện thuận lợi
cũng như bất lợi cho sự phát triển ngoại thương của đất nước.
1.1. Những lợi thế trong phát triển ngoại thương của Việt Nam:
Lợi thế về vị trí địa lý:
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam châu Á, là vùng có tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao nhất thế giới, bình quân mỗi nước ở khu vực này mức tăng trưởng kinh tế đạt 6-
7% năm.Viện Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế; ven biển. nhất là
từ Phan Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu tàu bè có thể cập bến an toàn quanh
năm.Sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng, cách đều các thủ đô thành phố quan
trọng trong vùng Đông Nam Á. Vị trí địa lý thuận lợi cho phép ta mở rộng quan hệ
kinh tế ngoại thương và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên:
So với một số nước khác thì nước ta thuộc loại có tài nguyên tương đối phong phú:
• Về đất đai: diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363 Km2 trong đó có tới
khoảng 50% là đất vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Khi hậu nhiệt đới mưa
nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông lâm sản xuất khẩu có hiệu
quả cao như gạo, cao su và các nông sản nhiệt đới. Chiều dài bờ biển bờ
biển, diện tích sông ngòi và ao hồ cho phép phát triển ngành thủy sản xuất
khẩu và phát triển thủy lợi, vận tải biển và du lịch.
• Về khoáng sản: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại nguồn thu
ngoại tệ đáng kể, sản lượng khai thác hàng năm gia tăng và là nơi thu hút
hiều vốn đầu tư nước ngoài. Than đá trữ lượng cao, mỏ sắt với trữ lượng vài
trăm triệu tấn; cả 3 miền Bắc, Nam, Trung, đều có nguồn clanh-ke để sản
xuất xi măng dồi dào.
Lợi thế về lao động:
Đây là thế mạnh của nước taLao động dồi dào, giá nhân công rẻ;tỷ lệ thất nghiệp
lớn. Lao động là 1 lợi thế cơ bản để phát triển các ngành hàng sử dụng nhiều lao động
như dệt, may, chế biến nông lâm thủy sản, lắp ráp sản phẩm điện, điện tử.
1.2. Những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của Ngoại thương:
Diện tích đất canh tác bình quân đầu người của ta thấp so với bình quân của thế
giới. Sản lượng lương thực có cao nhưng trước hết phải đảm bảo nhu cầu của dân nên
không thể tạo ra 2 nguồn tích lũy lớn cho những đòi hỏi cao của sự phát triển kinh tế.
Về tài nguyên tuy có phong phú nhưng phân bố tản mạn. Giao thông vận tải kém
nên khó khai thác, trữ lượng chưa xác định và chưa khoáng sản nào có trữ lương lớn
để trở thành mặt hàng chiến lược. Tài nguyên rừng, biển, thủy sản bị khai thác quá
mức mà không được chăm bối.
Vị trí địa lý hẹp nhưng cơ sở hạ tầng yếu kém, các hải cảng ít và nhỏ, đường xá và
phương tiện giao thông lạc hậu.
Trình độ quản lý kinh tế, xã hội kém, bộ máy chính quyền kém hiệu quả, quan lieu,
tham nhũng; chính sách, pháp luật không rõ ràng, thiếu đồng bộ, lại hay thay đổi gây
cản trở cho quá trình đổi mới kinh tế.
Trình độ quản lý của cán bộ và tay nghề công nhân còn thấp cho nên năng suất lao
động thấp, chất lượng hàng hóa chưa cao.
Công nghệ và trang thiết bị của nhiều ngành kinh tế còn ở trình độ thấp, hàng hóa
của Việt Nam chưa mang tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Những năm đầu thế kỷ 21, trong xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh tế ngoại thương, tạo điều kiện cho đất nước
hòa nhập với nền kinh tế kinh tế thế giới. Tuy nhiên còn có nhiều khó khăn trở ngai
cho tiến trình này. Việc đề ra một đường lối phát triển ngoại thương phù hợp cho phép
khai thác nhưng những lợi thế, hạn chế tối thiểu những trở ngại mang tính cấp bách và
thiết thực.
1.3. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:
1.3.1. Xuất khẩu:
Vai trò của xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay:
Xuất khẩu hàng hóa không chỉ đơn giản là bán hàng hóa ra nước ngoài, xuất khẩu
có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tầm quan trọng của
xuất khẩu thể hiện qua các vai trò sau:
• Thứ nhất, xuất khầu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cầu nhập
khẩu và tích lũy phát triển sản xuất.
• Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu được xem như là yếu tố quan trọng kích thích sự
tăng trưởng kinh tế: Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản
xuất , nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu gây phản ứng dây
chuyền giúp các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản
phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản phẩm xã hội
và nền kinh tế phát triển nhanh , hiệu quả.
• Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất: Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường về quy cách, chất lượng sản phẩm
thì một mặt phải đổi mới trng thiết bị phục vụ sản xuất, một mặt người lao động
phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
• Thứ tư, đầy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế
ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương
đối của đất nước.
• Thứ năm, đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản lượng sản xuất của quốc gia sẽ tăng
thông qua mở rộng với thị trường quốc tế.
• Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển xuất khẩu có tác động tích cực và có hiệu quả
đến nâng cao mức sống của nhân dân.
• Thứ bảy, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường hợp tác quốc tế giữa các
nước.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là hướng phát triển có tính chất chiến lược để đưa
nước ta thành nước công nghiệp mới trong giai đoạn hiện nay.
Định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn 2001-2010
Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương giành ưu tiên cao
nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức mạnh
cao để xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại
tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ thời kỳ 2001- 2010 phải đạt mức tăng tưởng bình quân từ 15% năm trở lên.
Dựa vào kết quả xuất khẩu giai đoạn 10 năm, 1990- 2000, tốc độ xuất khẩu
nước ta tăng trưởng bình quân 22% năm, Chính phủ đã đưa ra 1 định hướng phấn
đấu tăng trưởng thấp hơn nhiều giai đoạn trước đó. Chỉ tiêu phấn đấu này phù hợp
với tình hình thực tế, dự kiến, sau năm 2005, khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi
vào hoạt động, kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm, trong khi phần kim ngạch
này chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 định ra
rằng “ cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng tăng các sản
phẩm biến chế, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất
xám cao; bên cạnh đó phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng
nguyên vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong cũng như
ngoài nước có nhu cầu; đồng thời phải khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất
khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu hiện nay của chúng ta mặt hàng thô vẫn còn chiếm tỷ trọng
rất cao.Tỷ trọng mặt hàng điện tử và dệt may có gia tăng, nhưng rõ ràng, các sản
phẩm “chế tạo” của chúng ta chiếm tỷ trọng còn rất bé trong tổng kim ngạch xuất
khẩu.
Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 còn nêu các vấn đề về cơ sơ hạ tầng, về
qui hoạch sản xuất và thị trường xuất khẩu như sau:
- chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu;
giảm xuất khẩu chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ
mới.
- phải có qui hoạch vùng cho từng nhóm sản phẩm; từng bước xây dựng tiêu
chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu với nhãn hiệu “sản
xuất tại Việt Nam”.
Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế
giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẩu mã hàng hóa. Mối loại hàng hóa phải
hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị
trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị tường khác theo hướng đa
phương hóa, đa dạng hóa theo quan hệ buôn bán, từng bước giảm dần việc xuất
khẩu qua cá thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để
duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở châu Á, Nhật; thị
trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, thâm nhập Đông Âu, châu Mỹ , Phi.
Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu:
• Xây dựng các mặt h ... cam kết, nhằm tạo áp lực buộc các DN trong nước vươn lên,
nâng cao năng lực cạnh tranh gay gắt khi thực hiện mở cửa thị trường, tự do hóa
thương mại, dịch vụ. Đồng thời cần thiết nghiên cứu và ban hành một số loại thuế mới
nhằm bảo vệ thị trường nội địa và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh như: thuế chống bán
phá giá, thuế đối kháng
Bốn là, các biện pháp ưu tiên, ưu đãi, miễn giảm rất có ý nghĩa đối với việc khuyến
khích đầu tư, thực hiện điều tiết vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, và thực hiện
các chính sách xã hội, đặc biệt là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Tuy nhiên,
cần xác định thời hạn miễn giảm cụ thể, sau đó hạn chế và chuyển dần sang thực hiện
các biện pháp khác để đảm bảo tính trung lập và vai trò phân bổ các nguồn lực của
thuế, đảm bảo tính công bằng và đảm bảo các cam kết với WTO.
-Đối với thuế xuất khẩu:
Để đảm bảo khuyến khích tối đa hoạt động xuất khẩu, chỉ thực hiện thu thuế xuất
khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu mà VN đã có thị trường ổn định hoặc là nguyên
liệu thô cần cho sản xuất trong nước như quặng thô, phế liệu kim loại...Cần điều chỉnh
theo hướng giảm và tiến tới bỏ thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng như may mặc,
da giày, nông sản chế biến để khuyến khích xuất khẩu.
- Thuế nhập khẩu:
o Giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất: hiện nay nước ta
có 18 mức thuế nhập khẩu, mức thuế cao nhất là 60%. Để phù hợp với
yêu cầu hội nhập ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng
mức thuế. Về lâu dài, mức thuế phù hợp với yêu cầu AFTA là 0 - 5%,
nhưng trước mắt ta phải giảm dần, song đối với các mặt hàng mà nước ta
không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những
năm sắp tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu
cho sản xuất các ngành có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu...thì cần xây
dựng mức thuế nhập khẩu thấp hơn mức bảo hộ cấp I. Trong tương lai,
biểu thuế nhập khẩu hoàn thiện là 8 mức 0%, 3%, 5%, 10%, 20%, 30%,
40% và 50%. Đồng thời mức thuế cao nhất là 60% cũng được giảm
xuống còn 50%.
o Cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hóa đặc
biệt: trong luật thuế hiện hành chúng ta chưa có quy định về mức thuế
tạm thời đối với một số loại hàng nhập khẩu mà giá bán của nước xuất
khẩu quá thấp so với giá thành của hàng hóa nhằm gây rối hoặc có tính
chất đe dọa sự phát triển sản xuất trong nước. Vì vậy cần phải có quy
định về thuế suất tạm thời nhằm chống lại tình trạng bán phá giá, hoặc
hộ giá để nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Đây là những biện pháp đối phó với những hành động cạnh tranh không lành mạnh
trong thương mại quốc tế được nhiều nước áp dụng.
- Cần rà soát biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để phát hiện những điều bất hợp
lý, trên cơ sơ đó hiệu chỉnh danh mục, mức thuế xuất khẩu nhập khẩu cho phù hợp,
chuẩn xác nhằm hạn chế việc áp dụng sai thuế suất.
- Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo WTO. Giá tính thuế
nhập khẩu phải dựa trên cơ sơ mức giá trung bình trên thị trường thế giới hoặc mức giá
được ghi trong hợp đồng nhập khẩu.
- Tăng cường bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, khả năng vận dụng
và tổ chức thực hiện luật pháp của các cán bộ ngành thuế và ngành hải quan. Bên
cạnh các biện pháp giáo dục, kỷ luật hành chính, cần chú ý tới việc gắn trách nhiệm
với lợi ích vật chất đối với các cán bộ này. Cần đổi mới, trang bị
phương tiện làm việc của đội ngũ tuần tra chống buôn lậu trốn thuế. Cải tiến quy trình
thu thuế xuất nhập khẩu, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hợp lý phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện: Bộ Công thương vừa có quy định cho phép 35 loại hàng hóa được sản xuất
từ các nước có chung biên giới nhập khẩu vào Việt Nam dưới hình thức mua,
bán, trao đổi hàng hóa cư dân biên giới thời kỳ 2010 – 2012.
Các loại hàng hóa này sẽ được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác (nếu
có) với giá trị không quá 2 triệu đồng/người/lượt, trong thời gian từ 1/6/2010 tới hết
ngày 31/12/2012.
Việc cắt giảm thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo biểu thuế mới ban hành kèm theo
Thông tư 216/TT-BTC nằm trong lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết của Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cụ thể, các mức thuế suất được
cắt giảm hơn so với mức thuế hiện hành từ 1% đến 6%, trong đó mức giảm chủ yếu là
2% - 3%.
Theo biểu thuế mới, có tổng cộng 1.654 dòng thuế phải thực hiện cắt giảm theo cam
kết WTO. Trong số các nhóm hàng giảm theo cam kết và gộp thuế, đối với các nhóm
hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất là xăng dầu, ô tô xe máy, linh kiện và máy móc
trang thiết bị, sắt thép thì các mức thuế cho các nhóm này đều là mức trần WTO (trừ
xăng dầu).
Đọc thêm:
Hiện tại, Việt Nam đã thực hiện các chương trình cắt giảm thuế theo yêu cầu
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thực hiện tự do hóa thương mại và
đầu tư vào APEC đến năm 2020.
Từ ngày 11/1/2007 nước ta đã chủ động thực hiện các cam kết ràng buộc
toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ
17,4% xuống còn 13,4% với lộ trình thực hiện sau 5 đến 7 năm và công bố cắt
giảm 1.812 dòng thuế nhập khẩu với mức thuế suất giảm bình quân là 14,5%.
Từ 1/1/2008, theo cam kết với WTO, sẽ có khoảng 1.700 dòng thuế được cắt
giảm, với mức giảm phổ biến từ 1- 6%, mức giảm này không chênh lệch quá
lớn so với sắc thuế hiện hành. Từ năm 2009 sẽ tiếp tục giảm khoảng 2.000
dòng thuế của hơn 20 nhóm hàng với mức tối đa khoảng 2%. Trong những
năm tới, thực hiện các cam kết với WTO Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế suất
nhiều hơn đối với hàng nghìn dòng thuế, không chỉ có thế mà thực hiện cắt
giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan theo nhưng cam kết song phương
và khu vực.
Như vậy, tuy việc cắt giảm hàng loạt các dòng thuế theo các cam kết đa
phương và song phương, khu vực và thế giới được thực hiện ngày càng sâu
rộng đối với hàng nhập khẩu thì kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng, thể hiện ở
hiện tượng nhập siêu năm 2007 là 14,1200 tỷ USD và 6 tháng đầu năm nay
đã vượt cả năm trước đây. Nguyên nhân của số thu NSNN tăng mạnh trong
thời gian qua, do hiện tượng nhập siêu gia tăng nhanh chóng từ khi Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của WTO.
Giải pháp khắc phục nhập siêu
Quá trình thực hiện các hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa
phương (trong đó có WTO) thì việc giảm thuế suất ngày càng sâu rộng đối với
hàng nhập khẩu là một tất yếu khách quan. Việc cắt giảm các dòng thuế suất
này trong thời gian gần đây của nước ta là một trong những nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng nhập khẩu tăng cao, đã dẫn đến nhập siêu lớn đe dọa cân đối
nền kinh tế vĩ mô, làm tăng tỷ giá ngoại hối và còn tác động đến lạm phát cao
ở trong nước. Vì vậy, việc triển khai một số một số giải pháp quản lý nhập
khẩu mới phù hợp với quy định của WTO là hết sức cần thiết.
Việc giảm thuế quan theo các cam kết đa phương, khu vực và song phương
có mặt tích cực như giảm chi phí đầu vào cho nhiều sản phẩm trong nước, tạo
sức thúc ép các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh để giữ
vững thị trường và hơn thế còn khai thác thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu (do
cũng được các thành viên WTO giảm thuế và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan
đối với hàng hoá Việt Nam). Bởi vậy, giải pháp hàng đầu là nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở
sản xuất, kinh doanh, quy mô thương mại trong nước và xuất khẩu đều phát
triển mạnh thì nguồn thu NSNN sẽ tăng trưởng nhanh và bền vững.
Trong năm 2008 và những năm tới, tình trạng nhập siêu còn trầm trọng hơn
do hậu quả của chính sách bảo hộ thời kỳ tiền gia nhập WTO. Trong điều kiện
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, hội nhập nền kinh
tế khu vực và thế giới, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là chức năng bảo hộ của thuế nhập
khẩu cần được điều chỉnh lại cho phù hợp. Trước mắt cần xây dựng Biểu thuế
nhập khẩu cho phù hợp với định hướng bảo vệ có chọn lọc đối với ngành
hàng kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các dòng thuế nhập
khẩu cần điều chỉnh theo hướng bảo vệ, hỗ trợ những ngành sản xuất có khả
năng cạnh tranh trong một điều kiện với một thời hạn và xuất khẩu trên thị
trường khu vực và thế giới, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cầu kinh tế,
định hướng phát triển các ngành kinh tế phù hợp với mục tiêu đặt ra. Bảo hộ
cũng cần có lộ trình giảm dần, có như vậy chính sách bảo hộ mới có tác dụng
nâng cao sức cạnh tranh mà vẫn không phải triệt tiêu sức canh tranh của
hàng hóa trong nước. Về lâu dài, việc điều hành chính sách thuế nhập khẩu
nên dựa trên quan điểm coi đó là một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước
chứ không phải là một nguồn thu quan trọng. Có như vậy, thuế suất thuế nhập
khẩu mới đáp ứng được là một hàng rào hữu hiệu để hạn chế nhập siêu và
bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là xu hướng tất nhiên khi thực hiện những
cam kết quốc tế về hội nhập khu vực và quốc tế, đặc biệt là quy định của
WTO.
Về lâu dài, cần có phương án cụ thể để thuế hóa các hàng rào phi thuế quan
nhằm đáp ứng một nguyên tắc hàng đầu của WTO là chỉ bảo hộ bằng thuế
quan, mọi hàng rào phi thuế quan phải được loại bỏ. Việc thuế hóa cần được
tiến hành theo tiến độ và phương án cân nhắc cụ thể, sẽ tránh cho nền kinh tế
gặp phải những biến động đột ngột khi phải loại bỏ ngay hàng rào phi thuế
quan và thay bằng hàng rào thuế quan, nhất là trong trường hợp chưa có giải
pháp hữu hiệu khác để bảo vệ hợp lý nền sản xuất nội địa và ngăn chặn gian
lận thương mại.Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực
hiện thuận lợi hóa thương mại, đặc biệt về thủ tục hải quan cần nhanh chóng
áp dụng rộng thủ tục hải quan điện tử, kết hợp các tiêu chí quản lý rủi ro và
hoạt động quản lý tuân thủ vì lượng hàng hóa thông quan ngày một tăng
mạnh.
Ngoài ra, việc thay đổi thói quen xuất khẩu hàng hóa giá FOB và nhập khẩu hàng hóa
giá CIF bằng xuất khẩu giá CIF và nhập khẩu giá FOB tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Việt Nam thu được tiền bảo hiểm và cước tàu, xuất khẩu theo giá CIF cũng
khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm và vận tải Việt Nam phát triển mạnh hơn. Việc
xuất khẩu theo điều kiện CIF và nhập khẩu theo điều kiện FOB không còn quá mới mẻ
với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, do thói quen và do thiếu thông tin nên các
doanh nghiệp chưa lưu ý đúng mức về vấn đề này. Vấn đề thay đổi thói quen là khó
nhưng không phải không thực hiện được mà cần có sự quyết tâm của cộng đồng doanh
nghiệp cũng như công tác tuyên truyền, vận động, áp dụng những biện pháp khuyến
khích của chính phủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- www.tailieu.vn
- www.vietbao.vn
- www.wto.org
- Đỗ Đức Bình( 2002), Giáo trình kinh tế quốc tế, Nhà xuat ban LAo
động- Xã hội, Hà nội
- Bộ thương mại(2005) chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kì
2001-2010
|