Phúc Gia® – Cung Cấp Thông Tin Về Dàn Ngưng Tụ Làm Mát Bằng Không Khí Tới Người Tiêu Dùng. Đây Là Một Bộ Phận Đóng Vai Trò Quan Trọng Vào Hoạt Động Của Điều Hòa, Một Thiết Bị Làm Mát Phổ Biến Nhất Vào Mùa Hè Hiện Nay Và Để Hiểu Rõ Hơn Về Dàn Ngưng Tụ Làm Mát Bằng Không Khí, Các Bạn Hãy Theo Dõi Bài Viết Dưới Đây Của Phúc Gia® Nhé! Show Dàn ngưng tụ làm mát bằng không khí là gì? 1) Vai Trò, Vị Trí Của Các Thiết Bị Ngưng Tụ Trong Hệ Thống LạnhThiết bị ngưng tụ có nhiệm vụ ngưng tụ gas quá nhiệt sau máy nén thành môi chất lạnh trạng thái lỏng. Quá trình làm việc của thiết bị ngưng tụ có ảnh hưởng quyết định đến áp suất và nhiệt độ ngưng tụ và do đó ảnh hưởng đến hiệu quả và độ an toàn làm việc của toàn hệ thống lạnh như kho lạnh. Khi thiết bị ngưng tụ làm việc kém hiệu quả, các thông số của hệ thống sẽ thay đổi theo chiều hướng không tốt, cụ thể là:
2) Phân Loại Các Loại Dàn Ngưng Tụ Làm MátThiết bị ngưng tụ có rất nhiều loại và nguyên lý làm việc cũng rất khác nhau. Người ta phân loại thiết bị ngưng tự căn cứ vào nhiều đặc tính khác nhau : a) Theo môi trường làm mát :
b) Theo đặc điểm cấu tạo :
Trên đây là một số thông tin về Dàn Ngưng Tụ Làm Mát Bằng Không Khí mà Phúc Gia® cung cấp tới người tiêu dùng, mong rằng với thông tin này bạn sẽ có thể hiểu rõ hơn về Dàn Ngưng Tụ Làm Mát Bằng Không Khí. Đặc biệt, ngoài việc cung cấp các thông tin về Dàn Ngưng Tụ Làm Mát Bằng Không Khí, Phúc Gia® còn là đơn vị hàng đầu cung cấp Dịch vụ Dán Nhãn Năng Lượng và Hợp Quy cho Điều Hòa nhanh chóng nhất. Các khách hàng có nhu cầu muốn được tư vấn và sử dụng các Dịch vụ Hải quan tại Phúc Gia® hãy liên hệ ngay với chúng tôi để nhận được sự tư vấn chuyên sâu, cùng các dịch vụ xin giấy phép xuất nhập khẩu uy tín nhất! ĐIỀU GÌ TẠO NÊN THƯƠNG HIỆU PHÚC GIA®:Phúc Gia® – Đơn Vị Hàng Đầu Cung Cấp Các Dịch Vụ Hải Quan:Lý do khiến mọi doanh nghiệp đều lựa chọn Phúc Gia® là đơn vị hàng đầu trong Tư vấn Công Bố Hợp Quy An Toàn Thực Phẩm và Công Bố Phù Hợp Quy Định An Toàn Thực Phẩm, Dán Nhãn Năng Lượng, Chứng Nhận Hợp Quy, Công Bố Mỹ Phẩm và Dịch Vụ Logistics: 1) Phúc Gia® có bề dày hơn 5 năm kinh nghiệm trong ngành, là đơn vị đầu tiên đủ năng lực cung cấp dịch vụ Hải Quan cho hơn 500 đơn vị lớn nhỏ Trong & Ngoài Nước: Sharp (2012); SamSung (2012); Hitachi (2013); Electrolux (2013); Panasonic (2013); LG (2013); Sony (2013); Siemens (2013); Mitsubishi (2013); GE (2013); Haier (2014); Toshiba (2014); Carrier (2014); Philips (2014); HappyCook (2015); General (2015); TCL (2015); Alaska (2015); Casper (2015); Gree (2016); Hải Hà (2016); VinMart (2017)…
Tham khảo Luật, Nghị định, Thông tư về thuế bảo vệ môi trường: Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn về thuế bảo vệ môi trường Dưới đây là tổng hợp ý kiến tranh luận, phản biện: Ý kiến phản biện của chuyên gia cao cấp năng lượng Nguyễn Lý Tỉnh (Hội đồng Khoa học Năng lượng, thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam):"Nước tuần hoàn trực lưu nhà máy nhiệt điện: Phải nộp thuế môi trường là vô lý"
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Hệ thống làm mát bình ngưng này được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ những năm 70 và 80 của thế kỷ XIX, với tên gọi kỹ thuật là “Hệ thống nước tuần hoàn trực lưu” (The once - through circulating water system). Ưu việt quan trọng nhất của hệ thống làm mát nói trên là tận dụng nhiệt độ của các nguồn nước sông, biển, hồ lớn… tương đối thấp để nâng cao hiệu suất của tuabin hơi, đồng thời hệ thống làm mát kiểu này được sắp xếp đơn giản nên chi phí đầu tư và vận hành đều thấp. Đặc biệt, hệ thống làm mát này không ảnh hưởng đến môi trường nước mặt (biển, sông, hồ), nước ngầm và không khí, vì nước làm mát được bơm từ biển (sông, hồ) vào các ống dẫn bằng hợp kim đồng (hoặc hợp kim titan) để làm nguội hơi nước của tuabin rồi sau đó lại trở về biển (sông, hồ). Trong quá trình đó, không có bất kỳ hợp chất bên ngoài nào có thể lẫn vào nước làm mát đó. Thực tế, hệ thống làm mát hơi tuabin hoàn toàn giống như thiết bị chưng cất rượu cổ điển: nồi nấu rượu luôn đi kèm với chậu nước làm nguội bên trên để hơi rượu ngưng đọng phía đáy chậu trước khi được thu vào chai. Nước làm mát này cũng không bị tác nhân nào gây ô nhiễm. Ở những khu vực hiếm nước làm mát bình ngưng cho các NMNĐ, người ta phải thiết kế tháp làm mát bằng quạt (như ở các NMNĐ Na Dương, Cao Ngạn, Mạo Khê, Sơn Động) hoặc sử dụng bình ngưng khô làm mát bằng không khí (như ở NMNĐ Bà Rịa).
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Ngoài ra, để không ảnh hưởng tới sự sống của các sinh vật biển (sông, hồ) nhiệt độ gia tăng của nước làm mát bình ngưng đã được tính toán và thiết kế không vượt quá giới hạn cho phép (∆t ≤ 7 ÷ 8oC). Nghiên cứu kỹ lưỡng dây chuyền công nghệ nước làm mát bình ngưng của các NMNĐ như trình bày ở trên, các nhà khoa học, chuyên gia năng lượng thuộc Hội đồng Khoa học Năng lượng Việt Nam (Hiệp hội Năng lượng Việt Nam) kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, sở tài nguyên và môi trường các tỉnh có các NMNĐ với hệ thống nước làm mát bình ngưng kiểu tuần hoàn trực lưu không thu phí bảo vệ môi trường đối với nước làm mát bình ngưng của các nhà máy nhiệt điện.A. Những hệ thống nước tuần hoàn ở các nhà máy nhiệt điện Theo định luật nhiệt động thứ hai, sự thao tác của chu trình sinh công đòi hỏi nhiệt lượng thải phải ở nhiệt độ thấp của chu trình. Hiệu suất của chu trình công suất sẽ được tăng đáng kể khi nhiệt lượng thải ra có nhiệt độ thấp nhất. Điều này được chứng minh rõ ràng trong chu trình Carnot đối với chất lỏng 2 pha như hình vẽ dưới đây:
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Trong đó: Th: nhiệt độ tuyệt đối của nguồn nhiệt lượng nhiệt độ cao T1: nhiệt độ tuyệt đối của bể nhiệt lượng nhiệt độ thấp Phương trình (1) cho thấy chu trình Carnot có hiệu suất cao khi tăng Th hoặc giảm nhiệt độ T1. Bởi vì phần lớn những chu trình công suất phụ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài tương đối ấm đối với nhiệt lượng thải ra, trị số nhiệt lượng thải rất lớn. Thực tế cho thấy rằng để sản xuất ra 1 kWh điện năng theo chu trình công suất bằng hơi nước kiểu truyền thống thì khoảng 2 kWh nhiệt lượng “phế thải” vào môi trường bị thất thoát. Tại phần lớn các NMNĐ các chu trình công suất sử dụng hệ thống làm nguội để vứt bỏ nhiệt lượng “phế thải” đó. Các NMNĐ đó sử dụng hệ thống nước tuần hoàn như một cơ chế động lực trong đó nhiệt lượng phế thải của chu trình hơi được chuyển giao từ chu trình hơi sang môi trường xung quanh (trên hình vẽ: bể chứa nhiệt lượng nhiệt độ thấp). Nhiều yếu tố quyết định quy mô và thiết kế các hệ thống nước tuần hoàn của NMNĐ. Điều quan trọng bậc nhất là xác định thông số về quy mô hệ thống nước tuần hoàn (nhiệt lượng phế thải được chuyển giao hiệu quả ra sao tới bể chứa nhiệt lượng nhiệt độ thấp). Một bình ngưng hơi của NMNĐ làm ngưng hơi thoát của tuabin ở nhiệt độ khả dĩ thấp nhất và áp suất tương ứng đạt được hiệu suất tối đa của chu trình hơi, giảm thiểu nhiệt lượng phế thải loại bỏ vào bể chứa. Khi nhiệt độ và áp suất hơi thoát của tuabin giảm thấp, hiểu suất của chu trình hơi tăng lên. Tuy nhiên việc thiết kế một hệ thống nước tuần hoàn hiệu quả cao hơn để đạt nhiệt độ và áp suất thấp hơn trong bình ngưng sẽ dẫn tới làm tăng các chi phí đầu tư và vận hành. Do đó trong quá trình làm báo cáo khả thi (FS - Feasibility Study Report) cần thực hiện phân tích kinh tế - kỹ thuật chi tiết để xác định sự cân đối tối ưu giữa hiệu suất chu trình công suất và các chi phí đầu tư và vận hành của hệ thống nước tuần hoàn.1. Làm nguội kiểu trực lưu
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Trong hệ thống nước tuần hoàn trực lưu, nước làm nguội được bơm từ biển, hồ hoặc sông lớn vào bình ngưng của NMNĐ (hình vẽ) và sau đó trả lại biển (hồ, sông). Nước tuần hoàn chảy qua bình ngưng được hâm nóng lên trong quá trình ngưng hơi thoát của tuabin. Suốt nhiều năm qua (kể từ cuối thế kỷ 19) hệ thống kiểu trực lưu này được sử dụng phổ biến trên thế giới cho các NMNĐ để làm ngưng hơi thoát của tuabin hơi. Hệ thống kiểu trực lưu này có hai ưu việt cơ bản. Thứ nhất, sử dụng nguồn nước với nhiệt độ khá thấp làm tăng đáng kể hiệu suất của chu trình công suất. Thứ hai, cấu trúc hệ thống làm nguội đơn giản nên chi phí đầu tư và vận hành thấp. Điều quan trọng là phải thiết kế hệ thống nước làm nguội và bình ngưng sao cho nhiệt độ nước nguội qua bình ngưng được hâm nóng không quá 8oC so với nhiệt độ nước biển (hồ, sông) nhằm đảm bảo sự sống cho sinh vật biển (hồ, sông). Khoảng cách giữa cửa nhận nước làm nguội và điểm trả nước về biển (sông, hồ) đủ lớn (có thể 500m trở lên) để đảm bảo cho nước tuần hoàn qua bình ngưng hòa trộn đều với nước biển (hồ, sông) có nhiệt độ ban đầu nguội đi ~ 8oC. Phần lớn các NMNĐ của EVN, PVN, TKV đang sử dụng hệ thống nước tuần hoàn làm nguội bình ngưng kiểu nói trên như NMNĐ Phả Lại, Uông Bí, Quảng Ninh, Cẩm Phả, Hải Phòng,… kể cả ở các NMNĐ tuabin khí chu trình hỗn hợp như Phú Mỹ 1, 2, 3, Nhơn Trạch, Cà Mau và ở hàng loạt các NMNĐ đang được xây dựng như Hải Dương (2x600MW), Thái Bình 1 và 2 (2x300MW và 2x600MW), Vĩnh Tân, Vân Phong, Duyên Hải…2. Làm nguội nước ngưng trực lưu qua tháp làm mát
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Hệ thống làm nguội nước ngưng kiểu tháp thực hiện việc giải phóng nhiệt lượng của nước tuần hoàn (sau khi bị hâm nóng trong bình ngưng) vào khí quyển xung quanh. Hệ thống này được áp dụng ở các khu vực hiếm nước (không gần biển, sông) và có thể có các hồ nước nhỏ, hoặc ở gần sông nhưng lưu lượng thấp vào mùa đông như NMNĐ Cao Ngạn (Thái Nguyên), NMNĐ Na Dương (Lạng Sơn), NMNĐ Hải Dương (Malaysia xây dựng công suất 2x600MW trên bờ sông Kinh Thầy). Tháp làm mát truyền thống giải phóng nhiệt lượng thông qua quá trình bốc hơi. Do đó nguồn nước làm nguội nước ngưng (nước tuần hoàn) vẫn phải được bổ sung một lượng nhỏ. Trong thập kỷ gần đây người ta còn sử dụng các loại bình ngưng khô (Dry condenser). Về nguyên tắc, sự hoạt động của bình ngưng khô hoàn toàn không sử dụng nguồn nước bên ngoài làm nước tuần hoàn, mà sự giải phóng nhiệt lượng của nước ngưng là nhờ quạt không khí làm nguội bình ngưng khô. Các bình ngưng khô được sử dụng chủ yếu ở các khu vực không có nguồn nước làm nguội hoặc có nguồn nước nhỏ nhưng địa phương không cho phép sử dụng để bảo vệ thủy sản hoặc vì lý do riêng của khu vực. Tất nhiên, hiệu suất của chu trình nhiệt trong trường hợp này thấp hơn so với các hệ thống nói trên. Ở nước ta, bình ngưng khô được sử dụng ở NMNĐ Bà Rịa.B. Bình ngưng tụ (hơi nước) Công dụng và nguyên lý hoạt động của bình ngưng tụ Từ công thức (1) thấy rõ là hiệu suất của tuabin hơi càng cao khi nhiệt độ và áp suất hơi sau tầng cuối cùng của tuabin hơi càng thấp. Khi áp suất hơi thay đổi ± 1 kPa thì hiệu suất của tuabin hơi thay đổi khoảng 1% (đối với tuabin hơi nhà máy điện nguyên tử, thay đổi khoảng 1,5-2,0%). Do đó để tạo ra hiệu suất cao cần phải đảm bảo cho quá trình ngưng hơi diễn ra ở áp suất thấp.
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Để đạt mục đích nói trên người ta sử dụng bình ngưng tụ (như hình vẽ đơn giản trên) để ngưng tụ hơi nước từ sau tầng cuối cùng của tuabin hơi. Trong bình ngưng người ta đặt các ống đồng (hoặc titan) gắn trên 2 mặt sàng ở 2 đầu phía trong bình ngưng. Để giản đơn trên hình vẽ biểu thị bằng ống xoắn, thực tế bình ngưng là bộ trao đổi nhiệt giữa nước nguội (tuần hoàn) đi trong ống, hơi nước ở bên ngoài ống nước ngưng đọng lại ở đáy bình để sau đó nước ngưng được liên tục bơm qua các bộ gia nhiệt hạ áp lên bộ khử khí O2 v.v.
NGUỒN: (nangluongvietnam.vn) LINK 1 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
Chúc các bạn thành công!
Tham khảo Luật, Nghị định, Thông tư về thuế bảo vệ môi trường: Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn về thuế bảo vệ môi trường Dưới đây là tổng hợp ý kiến tranh luận, phản biện: Ý kiến phản biện của chuyên gia cao cấp năng lượng Nguyễn Lý Tỉnh (Hội đồng Khoa học Năng lượng, thuộc Hiệp hội Năng lượng Việt Nam):"Nước tuần hoàn trực lưu nhà máy nhiệt điện: Phải nộp thuế môi trường là vô lý"
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Hệ thống làm mát bình ngưng này được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ những năm 70 và 80 của thế kỷ XIX, với tên gọi kỹ thuật là “Hệ thống nước tuần hoàn trực lưu” (The once - through circulating water system). Ưu việt quan trọng nhất của hệ thống làm mát nói trên là tận dụng nhiệt độ của các nguồn nước sông, biển, hồ lớn… tương đối thấp để nâng cao hiệu suất của tuabin hơi, đồng thời hệ thống làm mát kiểu này được sắp xếp đơn giản nên chi phí đầu tư và vận hành đều thấp. Đặc biệt, hệ thống làm mát này không ảnh hưởng đến môi trường nước mặt (biển, sông, hồ), nước ngầm và không khí, vì nước làm mát được bơm từ biển (sông, hồ) vào các ống dẫn bằng hợp kim đồng (hoặc hợp kim titan) để làm nguội hơi nước của tuabin rồi sau đó lại trở về biển (sông, hồ). Trong quá trình đó, không có bất kỳ hợp chất bên ngoài nào có thể lẫn vào nước làm mát đó. Thực tế, hệ thống làm mát hơi tuabin hoàn toàn giống như thiết bị chưng cất rượu cổ điển: nồi nấu rượu luôn đi kèm với chậu nước làm nguội bên trên để hơi rượu ngưng đọng phía đáy chậu trước khi được thu vào chai. Nước làm mát này cũng không bị tác nhân nào gây ô nhiễm. Ở những khu vực hiếm nước làm mát bình ngưng cho các NMNĐ, người ta phải thiết kế tháp làm mát bằng quạt (như ở các NMNĐ Na Dương, Cao Ngạn, Mạo Khê, Sơn Động) hoặc sử dụng bình ngưng khô làm mát bằng không khí (như ở NMNĐ Bà Rịa).
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Ngoài ra, để không ảnh hưởng tới sự sống của các sinh vật biển (sông, hồ) nhiệt độ gia tăng của nước làm mát bình ngưng đã được tính toán và thiết kế không vượt quá giới hạn cho phép (∆t ≤ 7 ÷ 8oC). Nghiên cứu kỹ lưỡng dây chuyền công nghệ nước làm mát bình ngưng của các NMNĐ như trình bày ở trên, các nhà khoa học, chuyên gia năng lượng thuộc Hội đồng Khoa học Năng lượng Việt Nam (Hiệp hội Năng lượng Việt Nam) kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, sở tài nguyên và môi trường các tỉnh có các NMNĐ với hệ thống nước làm mát bình ngưng kiểu tuần hoàn trực lưu không thu phí bảo vệ môi trường đối với nước làm mát bình ngưng của các nhà máy nhiệt điện.A. Những hệ thống nước tuần hoàn ở các nhà máy nhiệt điện Theo định luật nhiệt động thứ hai, sự thao tác của chu trình sinh công đòi hỏi nhiệt lượng thải phải ở nhiệt độ thấp của chu trình. Hiệu suất của chu trình công suất sẽ được tăng đáng kể khi nhiệt lượng thải ra có nhiệt độ thấp nhất. Điều này được chứng minh rõ ràng trong chu trình Carnot đối với chất lỏng 2 pha như hình vẽ dưới đây:
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Trong đó: Th: nhiệt độ tuyệt đối của nguồn nhiệt lượng nhiệt độ cao T1: nhiệt độ tuyệt đối của bể nhiệt lượng nhiệt độ thấp Phương trình (1) cho thấy chu trình Carnot có hiệu suất cao khi tăng Th hoặc giảm nhiệt độ T1. Bởi vì phần lớn những chu trình công suất phụ thuộc vào nhiệt độ bên ngoài tương đối ấm đối với nhiệt lượng thải ra, trị số nhiệt lượng thải rất lớn. Thực tế cho thấy rằng để sản xuất ra 1 kWh điện năng theo chu trình công suất bằng hơi nước kiểu truyền thống thì khoảng 2 kWh nhiệt lượng “phế thải” vào môi trường bị thất thoát. Tại phần lớn các NMNĐ các chu trình công suất sử dụng hệ thống làm nguội để vứt bỏ nhiệt lượng “phế thải” đó. Các NMNĐ đó sử dụng hệ thống nước tuần hoàn như một cơ chế động lực trong đó nhiệt lượng phế thải của chu trình hơi được chuyển giao từ chu trình hơi sang môi trường xung quanh (trên hình vẽ: bể chứa nhiệt lượng nhiệt độ thấp). Nhiều yếu tố quyết định quy mô và thiết kế các hệ thống nước tuần hoàn của NMNĐ. Điều quan trọng bậc nhất là xác định thông số về quy mô hệ thống nước tuần hoàn (nhiệt lượng phế thải được chuyển giao hiệu quả ra sao tới bể chứa nhiệt lượng nhiệt độ thấp). Một bình ngưng hơi của NMNĐ làm ngưng hơi thoát của tuabin ở nhiệt độ khả dĩ thấp nhất và áp suất tương ứng đạt được hiệu suất tối đa của chu trình hơi, giảm thiểu nhiệt lượng phế thải loại bỏ vào bể chứa. Khi nhiệt độ và áp suất hơi thoát của tuabin giảm thấp, hiểu suất của chu trình hơi tăng lên. Tuy nhiên việc thiết kế một hệ thống nước tuần hoàn hiệu quả cao hơn để đạt nhiệt độ và áp suất thấp hơn trong bình ngưng sẽ dẫn tới làm tăng các chi phí đầu tư và vận hành. Do đó trong quá trình làm báo cáo khả thi (FS - Feasibility Study Report) cần thực hiện phân tích kinh tế - kỹ thuật chi tiết để xác định sự cân đối tối ưu giữa hiệu suất chu trình công suất và các chi phí đầu tư và vận hành của hệ thống nước tuần hoàn.1. Làm nguội kiểu trực lưu
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Trong hệ thống nước tuần hoàn trực lưu, nước làm nguội được bơm từ biển, hồ hoặc sông lớn vào bình ngưng của NMNĐ (hình vẽ) và sau đó trả lại biển (hồ, sông). Nước tuần hoàn chảy qua bình ngưng được hâm nóng lên trong quá trình ngưng hơi thoát của tuabin. Suốt nhiều năm qua (kể từ cuối thế kỷ 19) hệ thống kiểu trực lưu này được sử dụng phổ biến trên thế giới cho các NMNĐ để làm ngưng hơi thoát của tuabin hơi. Hệ thống kiểu trực lưu này có hai ưu việt cơ bản. Thứ nhất, sử dụng nguồn nước với nhiệt độ khá thấp làm tăng đáng kể hiệu suất của chu trình công suất. Thứ hai, cấu trúc hệ thống làm nguội đơn giản nên chi phí đầu tư và vận hành thấp. Điều quan trọng là phải thiết kế hệ thống nước làm nguội và bình ngưng sao cho nhiệt độ nước nguội qua bình ngưng được hâm nóng không quá 8oC so với nhiệt độ nước biển (hồ, sông) nhằm đảm bảo sự sống cho sinh vật biển (hồ, sông). Khoảng cách giữa cửa nhận nước làm nguội và điểm trả nước về biển (sông, hồ) đủ lớn (có thể 500m trở lên) để đảm bảo cho nước tuần hoàn qua bình ngưng hòa trộn đều với nước biển (hồ, sông) có nhiệt độ ban đầu nguội đi ~ 8oC. Phần lớn các NMNĐ của EVN, PVN, TKV đang sử dụng hệ thống nước tuần hoàn làm nguội bình ngưng kiểu nói trên như NMNĐ Phả Lại, Uông Bí, Quảng Ninh, Cẩm Phả, Hải Phòng,… kể cả ở các NMNĐ tuabin khí chu trình hỗn hợp như Phú Mỹ 1, 2, 3, Nhơn Trạch, Cà Mau và ở hàng loạt các NMNĐ đang được xây dựng như Hải Dương (2x600MW), Thái Bình 1 và 2 (2x300MW và 2x600MW), Vĩnh Tân, Vân Phong, Duyên Hải…2. Làm nguội nước ngưng trực lưu qua tháp làm mát
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Hệ thống làm nguội nước ngưng kiểu tháp thực hiện việc giải phóng nhiệt lượng của nước tuần hoàn (sau khi bị hâm nóng trong bình ngưng) vào khí quyển xung quanh. Hệ thống này được áp dụng ở các khu vực hiếm nước (không gần biển, sông) và có thể có các hồ nước nhỏ, hoặc ở gần sông nhưng lưu lượng thấp vào mùa đông như NMNĐ Cao Ngạn (Thái Nguyên), NMNĐ Na Dương (Lạng Sơn), NMNĐ Hải Dương (Malaysia xây dựng công suất 2x600MW trên bờ sông Kinh Thầy). Tháp làm mát truyền thống giải phóng nhiệt lượng thông qua quá trình bốc hơi. Do đó nguồn nước làm nguội nước ngưng (nước tuần hoàn) vẫn phải được bổ sung một lượng nhỏ. Trong thập kỷ gần đây người ta còn sử dụng các loại bình ngưng khô (Dry condenser). Về nguyên tắc, sự hoạt động của bình ngưng khô hoàn toàn không sử dụng nguồn nước bên ngoài làm nước tuần hoàn, mà sự giải phóng nhiệt lượng của nước ngưng là nhờ quạt không khí làm nguội bình ngưng khô. Các bình ngưng khô được sử dụng chủ yếu ở các khu vực không có nguồn nước làm nguội hoặc có nguồn nước nhỏ nhưng địa phương không cho phép sử dụng để bảo vệ thủy sản hoặc vì lý do riêng của khu vực. Tất nhiên, hiệu suất của chu trình nhiệt trong trường hợp này thấp hơn so với các hệ thống nói trên. Ở nước ta, bình ngưng khô được sử dụng ở NMNĐ Bà Rịa.B. Bình ngưng tụ (hơi nước) Công dụng và nguyên lý hoạt động của bình ngưng tụ Từ công thức (1) thấy rõ là hiệu suất của tuabin hơi càng cao khi nhiệt độ và áp suất hơi sau tầng cuối cùng của tuabin hơi càng thấp. Khi áp suất hơi thay đổi ± 1 kPa thì hiệu suất của tuabin hơi thay đổi khoảng 1% (đối với tuabin hơi nhà máy điện nguyên tử, thay đổi khoảng 1,5-2,0%). Do đó để tạo ra hiệu suất cao cần phải đảm bảo cho quá trình ngưng hơi diễn ra ở áp suất thấp.
"Click vào để xem ảnh gốc có chất lượng tốt hơn" Để đạt mục đích nói trên người ta sử dụng bình ngưng tụ (như hình vẽ đơn giản trên) để ngưng tụ hơi nước từ sau tầng cuối cùng của tuabin hơi. Trong bình ngưng người ta đặt các ống đồng (hoặc titan) gắn trên 2 mặt sàng ở 2 đầu phía trong bình ngưng. Để giản đơn trên hình vẽ biểu thị bằng ống xoắn, thực tế bình ngưng là bộ trao đổi nhiệt giữa nước nguội (tuần hoàn) đi trong ống, hơi nước ở bên ngoài ống nước ngưng đọng lại ở đáy bình để sau đó nước ngưng được liên tục bơm qua các bộ gia nhiệt hạ áp lên bộ khử khí O2 v.v.
NGUỒN: (nangluongvietnam.vn) LINK 1 - TÌM KIẾM SÁCH/TÀI LIỆU ONLINE (GIÁ ƯU ĐÃI NHẤT)
Chúc các bạn thành công! |