Ví dụ về hạn chế xuất khẩu tự nguyện ở Việt Nam


Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VERs) là một hạn chế do chính phủ quy định về số lượng hàng hóa có thể được xuất khẩu ra khỏi một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. 


➥ Hạn Chế Xuất Khẩu Tự Nguyện vận hành cũng giống như hạn ngạch nhập khẩu, ngoại trừ khác biệt là hạn ngạch khi này được cấp bởi nước xuất khẩu thay vì nước nhập khẩu.

- Những hạn chế này thường bị truy vấn bởi nước nhập khẩu. - Lợi nhuận hay lợi tức từ chính sách này thuộc về của chính phủ nước ngoài hoặc nhà sản xuất nước ngoài.

- Người nước ngoài bán một lượng hạn chế tại một mức giá tăng cao.

➥ Một hình thức khác của hạn ngạch nhập khẩu là Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER), theo đó quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không thì sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết

⏬ VERs phát sinh khi các ngành công nghiệp cạnh tranh nhập khẩu tìm kiếm sự bảo vệ khỏi sự gia tăng nhập khẩu từ các nước xuất khẩu cụ thể. VERs sau đó được nhà xuất khẩu cung cấp để xoa dịu quốc gia nhập khẩu và để tránh ảnh hưởng của các hạn chế thương mại có thể xảy ra đối với một phần của nhà nhập khẩu. Do đó, VERs hiếm khi hoàn toàn tự nguyện.

Ngoài ra, VERs thường được thực hiện trên cơ sở song phương. Trong lịch sử VERs đã được sử dụng từ những năm 1930, cho các sản phẩm khác nhau, từ dệt may, giày dép đến thép, máy công cụ và ô tô. Nó đã trở thành một hình thức bảo vệ phổ biến trong những năm 1980, miễn sao không vi phạm các thỏa thuận của các nước theo GATT. Từ năm 1994, các thành viên WTO đã đồng ý không triển khai bất kỳ VER mới và loại bỏ bất kỳ VER hiện có nào trong thời gian bốn năm. Các trường hợp ngoại lệ có thể được cấp cho một khu vực ở mỗi quốc gia nhập khẩu.

Ví dụ: Trong thập niên 90 Hoa Kỳ phàn nàn Nhật Bản thặng dư trong mua bán với Hoa Kỳ quá nhiều và Nhật Bản bảo hộ ngành sản xuất thiết bị máy bay trong nước. Sau khi đàm phán thất bại, Hoa Kỳ quyết định trả đũa bằng luật Super 301 nhằm hạn chế nhập khẩu ô tô từ Nhật. Sau đó, Nhật phải nhượng bộ tự hạn chế xuất khẩu ô tô sang Hoa Kỳ và tăng nhập máy bay từ Hoa Kỳ. Tranh chấp thương mại mới kết thúc.


Năm 2005, Trung Quốc cũng tự nguyện hạn chế xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ và EU để tránh một cuộc chiến thương mại không có lợi cho đôi bên.



Page 2

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (hay tự nguyện hạn chế xuất khẩu, tiếng Anh: Voluntary Export Restraint - VER) là một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu không thì sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết.

Mục lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Áp dụng
  • 3 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện và thoả thuận về thị trường
  • 4 Đọc thêm
  • 5 Liên kết ngoài
  • 6 Xem thêm
  • 7 Tham khảo
  • 8 Chú thích

Đặc điểmSửa đổi

  • Đây là hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan.
  • Đây là những cuộc thương lượng mậu dịch của các bên nhằm hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn việc làm cho thị trường trong nước.
  • Mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện nhất định

Áp dụngSửa đổi

Hình thức này được áp dụng khi một quốc gia nhập khẩu có khối lượng hàng nhập khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó từ một quốc gia xuất khẩu khác. Nên quốc gia nhập khẩu có yêu cầu quốc gia xuất khẩu hãy tự nguyện hạn chế xuất khẩu, nói là tự nguyện nhưng thực chất là một yêu cầu của nước nhập khẩu.

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện và thoả thuận về thị trườngSửa đổi

Trước 1995 do GATT cấm sử dụng hạn ngạch nhập khẩu, nên một số nước đã sử dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu "tự nguyện". Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một thoả thuận song phương giữa hai chính phủ. Nước xuất khẩu giới hạn xuất khẩu một số sản phẩm nhất định tới nước nhập khẩu. Nói chung, ngành công nghiệp đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu tương tự gây áp lực với chính phủ đàm phán về hạn chế xuất khẩu với nước xuất khẩu để giảm bớt áp lực cạnh tranh. Các nhà xuất khẩu bị "bắt buộc" chấp nhận số lượng đó và bị đe doạ nhận được các hành động khắc nghiệt hơn nếu không chấp nhận thoả thuận tự nguyện hạn chế số lượng xuất khẩu. Chính phủ xuất khẩu hoặc chính các nhà xuất khẩu quản lý thoả thuận này. Hạn chế xuất khẩu tình nguyện từng là một công cụ quan trọng hạn chế thương mại và đã được sử dụng khá rộng rãi. Trong khi hạn ngạch được áp dụng chung thì hạn chế xuất khẩu tình nguyện chỉ áp dụng với một số nước xuất khẩu chủ yếu, do đó tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các thành viên và rõ ràng vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Mỗi thành viên không được tìm kiếm, thực hiện hay duy trì bất cứ thoả thuận hạn chế xuất khẩu, thoả thuận về thị trường nào hay bất cứ biện pháp tương tự khác lên phía xuất khẩu hay nhập khẩu. Điều này bao gồm các hành động do một thành viên thực hiện riêng rẽ cũng như các hành động do hai thành viên trở lên thực hiện. - Theo Bộ công thương Việt Nam [1]

Đọc thêmSửa đổi

  • Automotive News Europe (2001), "Why the Japanese can't get going in Europe", Automotive News Europe, available at: www.autonewseurope.com/ stories0604/japanese604.htm, No.4 June,.
  • Boonekamp, C.F.J. (1987), "Voluntary export restraints", Finance & Development, Vol. 24 No.4, pp.2–5.
  • Caves, R.E. (1982), Multinational Enterprise and Economic Analysis, Cambridge University Press, Cambridge,.
  • European Commission (1991), Press Statement European Commission: Statement by Mr Andriessen, Vice-President of the Commission of the European Communities concerning the results of conversations between the Commission and Japan on motor vehicles. Brussels, 31 July,.
  • Feast, R. (2002), "Local production didn't help the Japanese", Automotive News Europe, Vol. 7 No.17, pp.26–7.
  • Hindley, B. (1986), "EC imports of VCRs from Japan – a costly precedent", Journal of World Trade, Vol. 20 No.2, pp.168–84.
  • Hizon, E.M. (1994), "The safeguard/VER dilemma: the Jekyll and Hyde of trade protection", Northwestern Journal of International Law & Business, Vol. 15 No.1, pp.105–38.
  • Holloway, N. (1992), "If you can't beat'em: Europe tries softer approach to Asian business", Far Eastern Economic Review, Vol. 155 No.40, pp.70–2.
  • (1995), in Hünerberg, H., Heise, K., Hoffmeister, H. (Eds),Internationales Automobilmarketing: Wettbewerbsvorteile durch marktorientierte Unternehmensführung, Gabler, Wiesbaden,.
  • Kostecki, M.M. (1991), "Marketing strategies and voluntary export restraints", Journal of World Trade, Vol. 25 No.4, pp.87–100.
  • Magee, S.P., Brock, W.A., Young, L. (1989), Black Hole Tariffs and Endogenous Policy Theory. Political Economy in General Equilibrium, Cambridge University Press, New York, NY,.
  • Preusse, H.G. (1992), "Freiwillige Selbstbeschränkungsabkommen und internationale Wettbewerbsfähigkeit der europäischen Automobilindustrie: Zu den potentiellen Auswirkungen der Vereinbarung der Europäischen Gemeinschaft mit Japan", Aussenwirtschaft, Vol. 47 No.III, pp.361–88.
  • Schuknecht, L. (1992), Trade Protection in the European Community, Harwood Academic Publishers, Chur,.
  • Scott, R.E. (1994), "The effects of protection on a domestic oligopoly: the case of the US auto market", Journal of Policy Modeling, Vol. 16 No.3, pp.299–325.
  • Seebald, C.P. (1992), "Life after the voluntary restraint agreements: the future of the US steel industry", George Washington Journal of International Law and Economics, Vol. 25 No.1, pp.875–905.
  • Wells, L.T. (1998), "Multinationals and the developing countries", Journal of International Business Studies, Vol. 29 No.1, pp.101–14.
  • Berry, S., Levinsohn, J., Pakes, A. (1999), "Voluntary export restraints on automobiles: evaluating a trade policy", The American Economic Review, Vol. 89 No.3, pp.400–30.
  • Crandall, R.W. (1987), "The effects of US trade protection for autos and steel", Brookings Papers on Economic Activity, Vol. 1 No.1, pp.271–88.
  • Denzau, A.T. (1988), "The Japanese automobile cartel: made in the USA", Regulation, Vol. 12 No.1, pp.11–16.
  • Kent, J. (1989), "Voluntary export restraint: political economy, history and the role of the GATT", Journal of World Trade, Vol. 23 No.39, pp.125–40.
  • Kumlicka, B.B. (1987), "Steel goes to Washington: lessons in lobbying", Ivey Business Quarterly, Vol. 52 No.2, pp.52–3.
  • Naumann, E., Lincoln, D. (1991), "Non-tariff barriers and entry strategy alternatives: strategic marketing implications", Journal of Small Business Management, Vol. 29 No.2, pp.60–70.
  • Preusse, H.G. (1991), "Voluntary export restraints – an effective means against a spread of neo-protectionism?", Journal of World Trade, Vol. 25 No.2, pp.5–17.
  • Wolf, M. (1989), "Why voluntary export restraints? An historical analysis", The World Economy, Vol. 12 No.3, pp.273–91.
  • Yeh, Y.H. (1999), "Tariffs, import quotas, voluntary export restraints and immiserizing growth", American Economist, Vol. 43 No.1, pp.88–92.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Glossary of International Trade Terms Lưu trữ 2008-10-25 tại Wayback Machine
  • Export Glossary-UV
  • Trade: Chapter 10-3: Voluntary Export Restraints (VERs) (Steven M. Suranovic)
  • Benjamin, Daniel K. (1999). “Voluntary Export Restraints on Automobiles”. PERC Reports: Volume 17, No. 3. Property & Environment Research Center. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2008. In May 1981, with the American auto industry mired in recession, Japanese car makers agreed to limit exports of passenger cars to the United States. This "voluntary export restraint" (VER) program, initially supported by the Reagan administration, allowed only 1.68 million Japanese cars into the U.S. each year. The cap was raised to 1.85 million cars in 1984, and to 2.30 million in 1985, before the program was terminated in 1994 Đã bỏ qua tham số không rõ |month= (trợ giúp)

Xem thêmSửa đổi

  • Chính sách thương mại quốc tế
  • Xuất khẩu

Tham khảoSửa đổi

  • Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng (2008), Giáo trình Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Bản chất của các rào cản thương mại quốc tế hiện đại và cam kết của Việt Nam[liên kết hỏng]