Ví dụ về giáo dục sức khỏe cho trẻ mầm non

A. ĐẶT VẤN ĐỀChăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ là một quá trình tác động có mục đích,có kế hoạch lên tình cảm, lý trí của trẻ nhằm thay đổi nhận thức, thái độ, hànhđộng để trẻ tự giác chăm lo đến vấn đề ăn uống, vệ sinh sức khoẻ, cá nhân tậpthể và cộng đồng.Thủa sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói: “Trẻ em hômnay thế giới ngày mai” Thật vậy! Trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình,là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha ông để xây dựngbảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước, nền kinh tế không ngừng phát triển với một sự thay đổi căn bản về cơcấu xã hội để tiếp cận với một nền văn minh phát triển cao.Thực hiện nhiệm vụ của bộ giáo dục và đào tạo, ngành học mầm non đãđưa nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.§ây là việc làm vô cùng cần thiết, nó tạo được sự liên thông chăm sóc nuôidưỡng giáo dục từ độ tuổi mầm non cho đến lứa tuổi học đường.Dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của con người, trẻ em cần dinhdưỡng để phát triển thể lực và trí lực, người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sựsống và làm việc, hay nói cách khác dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và pháttriển của cơ thể. Chính vì vậy chúng ta có thể khẳng định rằng dinh dưỡng vôcùng quan trọng đối với đời sống của con người. Đặc biệt là đối với trẻ mầmnon.Đây việc làm vô cùng cần thiết, nó tạo được sự liên thông giáo dục dinhdưỡng từ độ tuổi mầm non đến lứa tuổi học đường. Cho đến nay, chuyên đề giáodục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đã được tổng kết. Song năm học2011 - 2012 trường Mầm non Nga Thái vẫn tiếp tục tổ chức triển khai thực hiệnchuyên đề đến toàn bộ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong toàn trường, từ đó giúpcho tôi nắm vững nội dung, phương pháp một cách thường xuyên và liên tục về1giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tác động đến trẻ mộtcách nhanh nhất, chính xác nhất, góp phần quan trọng trong chiến lược trồngngười, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy đủ về dinh dưỡng, sức khoẻvà vệ sinh an toàn thực phẩm, biết lựa chọn một cách thông minh và tự giác,cách ăn uống để đảm bảo cho sức khoẻ của mình.Là một giáo viên Mầm Non, tôi luôn nhận thức sâu sắc được tầm quantrọng của giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sức khoẻcon người đặc biệt là trẻ lứa tuổi mầm non, đó chính là động lực thôi thúc tôitìm tòi ra những giải pháp, biện pháp, để lồng ghép nội dung giáo dục dinhdưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ đạt hiệu quả cao. Đó cũng chính làđề tài tôi chọn sáng kiến của mình.B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀI. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀGiáo dục mầm non là một bộ phận rất quan trọng trong việc đào tạo thế hệtrẻ. Vì lứa tuổi này vốn có một tiềm lực mạnh mẽ nếu được giáo dục nuôi dưỡngchăm sóc tốt, các cháu sẽ sớm phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm một cáchđúng hướng. Nó là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong sự hình thành con ngườimới xã hội chủ nghĩa.Sức khoẻ của trẻ em phụ thuộc vào yếu tố như: Chế độ dinh dưỡng, phòngbệnh, di truyền, môi trường…trong đó dinh dưỡng có vai trò quan trọng, ảnhhưởng trực tiếp đến sự phát triển trẻ em. Thiếu ăn, ăn không đủ chất, ăn khônghợp lý, đều gây tác hại cho sức khoẻ của trẻ. Lứa tuổi mầm non là giai đoạn cơthể phát triển rất mạnh rất nhanh, các cơ quan của cơ thể đang trên đà hoànthiện. Đây cũng là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ , đồng thời chuẩn bịcho trẻ bước vào những năm đầu đời của trường tiểu học, sức khoẻ là yếu tố cótính quyết định đến sự phát triển của con người. Sức khoẻ tốt tạo điều kiện chocon người phát triển về thể chất nói chung, học tập và lao động nói riêng. Nhiều2công trình nghiên cứu cho thấy, trí nhớ, sức chú ý, sự cần cù, độ dẻo giai tronghọc tập phụ thuộc vào trạng thái chung của sức khoẻ con người.Trong thời đại của nÒn văn minh trí tuệ. Giáo dục mầm non đang có nhữngchuyển biến mới về chất lượng, đổi mới chung của ngành giáo dục. Dưới ánhsáng của nghị quyết về công tác cải cách giáo dục điều lệ trường mầm non cũngđã nêu lên nhiệm vụ hàng đầu trong 4 nhiệm vụ của trường mầm non. Vì vậyviệc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ nhằm phát triển cân đối hài hoà, nhằm chống đỡbệnh tật: Vì thế nếu chúng ta chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh khong tốt về cácnhân trẻ, môi trường trong và ngoài lớp đều gây cho trẻ ốm đau bệnh tật, dẫnđến sự phát triển về thể chất bị kìm hãm, các quá trình tâm lý đang độ hìnhthành cũng không thể nào phát triển một cách cân đối hài hoà trên một cơ thểgầy gò ốm yếu.Từ nhữnglý luận và thực tiễn công tác của bản thân tôi đã xác định được cótới 95% trẻ em trí tụê kém phát triển là do sức khoẻ, thể lực phát triển không tốtvì vậy chúng ta cần tránh một số quan điểm chưa đúng đối với ngành học mầmnon đó là.Quan điểm đánh giá về chất lượng, chỉ đánh giá về kết quả học tập cácmôn như toán, môi trường xung quanh, âm nhạc , tạo hình… mà chưa thực sựquan tâm đến công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và lồng ghép nội dung giáo dụcdinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non.Điều kiện của trẻ sẽ được chăm sóc nuôi dưỡng chu đáo, nuôi dạy con theophương pháp khoa học, trẻ được phát triển cân đối giữa 2 mặt thể lực và trí tuệ ,cả một ngày trẻ được ăn ,ngủ, nghỉ ngơi, học tập, vui chơi, vệ sinh các nhân sạchsẽ…hợp lý nên sức khoẻ của trẻ đảm bảo tốt.Trẻ được ở bán trú, trẻ biết lao động tự phục vụ các nhân, biết giữ gìn vệsinh chung, hình thành thói quen nề nếp, ý thức kỷ luật của cô đề ra, tạo điềukiện cho trẻ giao lưu bạn bè trong lớp, vui chơi với các cô, các bạn,các cô cấpdưỡng y tá. Dần dần hình thành cho trẻ tình cảm yêu thương, nhường nhịn giúpđỡ lẫn nhau, biết kính trọng người trên, yêu quý mọi người xung quanh trẻ.3Vì vậy lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thựcphẩm cho trẻ trong các hoạt động trong ngày là việc làm vô cùng quan trọng vìsức khoẻ là vốn quý, qua đây tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt về cả thể lực vàtrí tuệ sau này.II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:*Thực trạng chung:Công tác chăm sóc , nuôi dưỡng trẻ hiện nay ở các trường mầm non trongtỉnh đã và đang có những chuyển biến đáng kể trong công tác chăm sóc, giáodục trẻ và đặc biệt là công tác tổ chức chăm sóc nuôi dưỡng cho trẻ tại trườngđang được các cấp các ngành quan tâm. Trong những năm gần đây được sự quantâm của đảng vavf nhà nước về chế độ cũng như thường xuyên mở các lớp đàotạo giáo viên, nâng cao trình độ chuyên môn nghịêp vụ chuẩn và trên chuẩn. Dođó trình độ chuyên môn nghiệp vụ năng lực chăm sóc giáo dục trẻ của đội ngũgiáo viên đã ngày được nâng cao rõ rệt, đáp ứng yêu cầu của ngành học mầmnon và của toàn xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Cơ sở vật chất trong các trường mầm non hiện nay cũng đã được nâng lênrõ rệt: đa số các trường mầm non đã xây dựng được khu trung tâm và tổ chức ănbán trú cho các cháu. Số lượng trẻ ăn bán trú ngày một tăng, chất lượng bữa ănngày một cải thiểnõ rệt, số lượng trẻ suy dinh dưỡng giảm đáng kể và một sốtrường lớn đạt tỷ lệ 100% trẻ được ăn ngủ tại trường. Tuy nhiên một số trườngcó khu trung tâm thì có điều kiện tổ chức cho trẻ ăn bán trú, còn một số khu lẻvẫn chưa tổ chức được. Do vậy vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao trẻ mầm nontrong toàn tỉnh đều được chăm sóc nuôi dưỡng tại các nhà trường mầm non.* Thực trạng của trường mầm non Nga TháiTrường Mầm non Nga Thái Là một trường chuẩn quốc gia , nhiều năm liềnđược công nhận là trường tiên tiến cấp huyện, tỉnh. Được sự quan tâm củaphòng giáo dục Huyện Nga Sơn, các cấp uỷ Đảng chính quyền địa phương tạođiều kiện quan tâm giúp đỡ xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và đặc biệt lànhà trường có một đôi ngũ giáo viên trẻ năng động nhiệt tình thực sự yêu nghề4mến trẻ, đặc biệt là có kiến thức về vấn đề dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thựcphẩm.Từ đó đã tạo được niềm tin cho các bậc phụ huynh và nhân dân trong toànxã.Là một giáo viên, năm học này tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫugiáo lớn thuộc xóm( 4 - 5 - 6). Theo điều tra năm học 2011- 2012 tổng số cháu 5tuổi thuộc xóm ( 4 - 5 - 6) là 40 cháu. Phần lớn các cháu không được học qualớp bé, nhỡ mà vào thẳng lớp mẫu giáo lớn. Nên trong những năm đầu thực hiệnchuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm tôi đã gặp không ítkhó khăn.Mặc dù vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đã đượcphụ huynh học sinh quan tâm, hỗ trợ kinh phí nhưng vẫn còn một số phụhuynh,các cấp các ngành vẫn còn coi nhẹ vấn đề này. Từ đó để chất lượng giáodục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm được nâng cao hơn, bản thân tôiluôn coi chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm là mộtchuyên đề trọng tâm của năm học .Vì trẻ em phát triển thể lực kém là do khẩuphần ăn của trẻ chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên nhân là do:+ Tập quán ăn uống của một số gia đình.+ Ít cho trẻ ăn các loại các, giầu thực vật.+ Chất lượng ăn uống còn phụ thuộc vào mức thu nhập của cha mẹ trẻ.+ Do cha mẹ trẻ nuôi dậy trẻ thiếu kiến thức nuôi dưỡng, chăm sóc…Cho đến nay chuyên đề đã được tổng kết nhưng việc tổ chức và thực hiệnchuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế,kết quả đạt được chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra.*Qua kết quả khảo sát ban đầu cho thấy( Tháng 9 năm 2011)NộidungVệ sinh cá nhânTrẻ nhận biếtđược 4 nhóm thựcphẩmTrẻ kể tên các mónăn mà trẻ biếtKết qủa cân đoSố lượngTốtKháTBC§TốtKháTBC§TốtKháTBC§KBTTổng 40913108812146111210733CHKSDD SVT70Tỷ lệ %22.5 32.5 25202030351527.5302517.582.517.505Thông qua kết qủa của thực trạng trên tổng số cháu có kiến thức về giáodục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm còn hạn chế. Xuất phát từ thựctrạng đó để nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thựcphẩm cao hơn nữa tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và biện pháp tổ chứcthực hiện như sau:III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆNQua quá trình tổ chức thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinhan troàn thực phẩm tôi đã có biện pháp tổ chức thực hiên mang lại kết quả khákhả thi như sau:1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệsinh an toàn thực phẩm.Tuy chuyên đề đã được tổng kết nhưng sức khoẻ và tính mạng của conngười đặc biệt là của trẻ mầm non thì vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh antoàn thực phẩm luôn tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Vì vậy chuyên đềnày luôn được nâng cao cả về kiến thức và thực hành cho học sinh, phụ huynhvà coi đây là chuyên đề trọng tâm của năm học.Để thực hiên tốt và chủ động tránh mọi đáng tiếc sảy ra ngay từ đầu nămhọc tôi đã xây dựng đã xây dựng kế hoạch một cách cụ thể, sát thực với tìnhhình thực tế của lớp mình, cũng như xóm mình nhận phụ trách. Sau khi xâydựng kế hoạch xong tôi đã đưa ra cho Ban giám hiệu bổ sung góp ý để thốngnhất khẳng định mục tiêu, giải pháp thực hiện.Sau khi được ban giám hiệu góp ý kiến tôi đã xác định rõ mục đích yêucầu, nội dung, biện pháp, thời gian thực hiện và cụ thể từng nội dung thực hiệnlồng ghép giáo dục, làm đồ dùng, bổ sung trang thiết bị cụ thể từng tháng một rõràng.* Kết quả: Tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề và đây cũng làtiêu chí đánh giá xếp loại thi đua giáo viên trong năm.2. Lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh antoàn thực phẩm cho trẻ thông qua các hoạt động .6Giáo dục dinh dưỡng thường không tổ chức thành giờ riêng biệt mà đượcthực hiện lồng ghép tích hợp các nội dung này vào tiết dạy và các hoạt độngkhác. chính vì vậy ngay từ đầu năm học ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo tấtcả giáo viên chủ động lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệsinh an toàn thực phẩm vào các chủ đề, các thời điểm hoạt động trong mộtngày một cách nhẹ nhàng linh hoạt sáng tạo mà không ảnh hưởng tới nội dungchính cần chuyển tải.2.1. Giờ đón trả trẻ:- Tôi trò chuyện với trẻ về các loại thực phẩm mà trẻ biết tác dụng củathực phẩm đó đối với sức khỏe con người phù hợp với chủ đề, gi¸o dục trẻ giữgìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.Ví dụ: Ở chủ đề “thế giới thực vật” tôi trò chuyện với trẻ về các loại rau,quả như tên gọi, đặc điểm, là thực phẩm chứa nhiều chất vitamin, chất khoáng,ăn các loại rau quả giúp cho cơ thể tăng sức đề kháng, phòng chống bệnh tật.Trước khi ăn phải làm sạch, gọt sạch các loại thực phẩm, rửa tay, röa các dụngcụ chế biến.- Tôi cho trẻ làm quen với đồ dùng, đồ chơi mới, từ đó giới thiệu thêmmột số thực phẩm mới cho trẻ biết về tên gọi các chất có trong các loại thựcphẩm đó giúp trẻ có thêm kiến thức về các loại thực phẩm mà địa phương khôngcó.Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới động vật” tôi cho trẻ làm quen với đồ chơi mớido bản thân tôi tự làm về các loại cá nước lợ, nước mặn mà ở địa phương tôikhông có. Như cá chim, cá thu, cá hồi ... Sau đó tôi giới thiệu về tên gọi củatừng loại cá cho trẻ biết các loại cá này sống ở biển và vùng gần biển nên ở địaphương không có các loại cá này là thực phẩm chứa nhiều chất đạm...Ngoài ra tôi còn cho trẻ kể tên các món ăn mà trẻ biết và để trẻ tự kể mìnhthích ăn món gì nhất, qua đó tôi cũng tranh thủ giới thiệu thêm các món ăn khácđể góp phần làm tăng vốn hiểu biết phong phú về các món ăn cho trẻ.72.2. Hoạt động học có chủ định.Tổ chức giờ hoạt động có chủ định là hoạt động chủ đạo để giúp tôi lồngghép, tích hợp giáo dục dịnh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mộtcách tốt nhất. Bởi vậy, căn cứ vào nội dung cụ thể của từng hoạt động mà tôitiến hành lồng ghép phù hợp như sau:* Với hoạt động khám phá môi trường xung quanh :Đây là hoạt động chính giúp trẻ tiếp thu những kiến thức cơ bản về các loạithực phẩm, các chất dinh dưỡng - sức khỏe và vệ sinh an toàn thực phẩm .Thông qua các hoạt động cho trẻ khám phá về các loại rau, củ, quả cácloại, các con vật nuôi trong gia đình. Tôi dạy trẻ biết gọi tên các loại thực phẩm,tên gọi các món ăn chế biến từ các loại thực phẩm ấy và giúp trẻ biết đượcnguồn gốc các loại thực phẩm các chất có trong các thực phẩm ấy.Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về các con vật nuôi trong gia đình cụ thể làcon gà mái trẻ biết được gà mái đẻ ra trứng, trứng là thực phẩm có nhiều chấtđạm ăn trứng giúp cơ thể trẻ nhanh lớn. Qua đó động viên những trẻ chưa thíchăn trứng để trẻ tự giá ăn, đồng thời giáo dục những trẻ thích ăn trứng gà ở mứcđộ vừa phải nếu ăn trứng gà hằng ngày sẽ bị mắc bệnh không tốt cho sức khỏe .Trứng có thể chế biến các món ăn : Trứng rán, trứng luộc, trứng có thể dùng nấucanh Cà chua.* Với hoạt động làm quen với tác phẩm văn họcNhư chúng ta đã biết văn học là tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ của vănhọc là ngôn ngữ biểu cảm lôi cuốn người nghe, các tác phẩm văn học có các tìnhhuống hấp hẫn thu hút sự chú ý của trẻ . Chính vì vậy những hoạt động làm quenvới tác phẩm một cách nhẹ nhàng và thoải mái nhất từ đó trẻ lĩnh hội nhanhnhững kiến thức mà cô truyền đạt .Ví dụ: Qua bài thơ “Bắp cải” trẻ biết được đặc điểm cây bắp cải, cô giớithiệu cho trẻ biết bắp cải là một loại rau có rất nhiều chất vitamin và chấtkhoáng, bắp cải có thể nấu canh, luộc, xào. Qua truyện “ Hai anh em” trẻ biếtphân biêt nguồn gốc của hạt gạo, gạo nấu thành cơm nuôi sống con người , trong8gạo có rất nhiều chất bột đường, lúa gạo là do người nông dân trồng, chăm sóctừ đó mà trẻ quý trọng sản phẩm mà người lao động làm ra, yêu quý người laođộng.*Ví dụ: khi dạy bài thơ “Hạt gạo làng ta” nếu lồng dinh dưỡng bằng cách:sau khi đọc thơ cô hỏi: gạo dùng để làm gì? gạo được chế biến thành những móngi?Gạo cung cấp chất gì? tôi thiết nghĩ giáo dục dinh dưỡng lúc này là khôngphù hợp vì: Bài thơ nói về nỗi vất vả của Người lao động một nắng hai sươngmới làm nên hạt gạo, nếu ta lồng ghép như vậy sẽ làm mất đi ý tưởng của bàithơ.Để lồng ghép phù hợp tôi đã đưa giáo dục dinh dưỡng vào phần giới thiệubài: cô cho trẻ nghe bài hát “ Hạt gạo làng ta” sau khi cho trẻ nghe xong cô hỏi:+ Bài hát nói về hạt gì?+ Ai đã làm ra hạt gạo?+ Gạo cung cấp chất gì ?9Từ đó giaó dục các cháu biết gạo giàu chất bột đường cung cấp năng lượnggiúp cơ thể khoẻ mạnh, gạo còn được chế biến ra nhiều món ăn khác nhau. Rồisau đó cô cho trẻ quan sát một loại gạo và sau đó dẫn dắt vào bài , làm như vậythì ý tưởng của bài sẽ không bị mất đi.* Với hoạt động tạo hìnhThông qua hoạt động tạo hình tôi cũng khéo léo lồng ghép giáo dục dinhdưỡng: Giúp trẻ biết thêm về các thực phẩm, tên thực phẩm, đặc điểm thựcphẩm, các chất có trong thực phẩm đó. Trẻ được trực tiếp tham gia hoạt độngnhư vẽ, nặn, cắt, xé dán từ đó giúp trẻ nhớ lâu các loại thực phảm đó .Ví dụ:Với hoạt động vẽ “ Vườn cây ăn quả” tôi cho trẻ gọi tên các loạiqủa, mầu sắc của các loại quả, giáo dục trẻ ăn quả cung cấp cho ta nhiềuvitamin, giáo dục vệ sinh cho trẻ trước khi ăn quả phải rửa sạch gọt vỏ bỏ hạt,sau khi ăn phải bỏ vỏ hạt vào thùng rác khi rửa quả phải biết tiết kiệm nước .....* Thông qua các hoạt động khác : Am nhạc, Làm quen với toán, Làmquen chữ cái:Ví dụ: Dạy hát bài: “Quả gì” tôi khéo léo lồng ghép giáo dục trẻ để trẻđược biết có rất nhiều loại quả khác, trẻ kể tên các loại quả có trong bài hát vàgiáo dục cho trẻ biết trong các loại quả chứa nhiều vitamin và chất khoáng khiăn thì phảirửa sạch gọt vỏ, bỏ hạt.Ví dụ: Làm quen với toán : cho trẻ nhận biết số 7 chủ đề thế giới động vậttôi sử dụng các nhóm đồ vật gồm 7 con thỏ và 7 củ cà rốt để trẻ nhận biết và lậpsố 7. Sau đó tôi lồng ghép giáo dục dinh dưỡng bằng cách: Trò chuyện với trẻthỏ rất thích ăn cà rốt vì ăn cà rốt cung cấp chất Vitamin giúp da dẻ hồng hào,khỏe mạnh ... Các con có thích ăn cà rốt không? Ăn cà rốt cung cấp chất gì?...Ví dụ : Làm quen với chữ cái: Trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quenvới nhóm chữ cái “ i, t , c” ở chủ đề thế giới động vật: trẻ được làm quen khámphá các hình ảnh về những con vật sống dưới nước và sống trong rừng: tôm, cá,cua... có các chữ cái i, t, c. Sau đó tôi lồng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an10toàn thực phẩm bằng cách trò chuyện với trẻ về các con vật có trong hình ảnh vàtrẻ được khám phá như : nơi ở, đặc điểm cấu tạo, cung cấp chất dinh dưỡng gìkhi được ăn?Cứ như vậy tôi nhẹ nhành lồng ghép tích hợp giáo dục dinh dưỡng vào cáchoạt động trẻ hiệu quả rất cao, trẻ nhận biết tốt và thích khám phá.2.3. Hoạt động ngoài trời:Tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời cũng có nghĩa rất quan trọng trẻ đượctrực tiếp tham quan, dạo chơi ngoài trời, giúp trẻ biết tên các loài thực phẩm,trực tiếp quan sát đặc điểm của các loài thực phẩm.Ví dụ: Quan sát vườn rau trẻ được gọi tên các loại rau, quan sát đặc điểmcủa các loài rau, củ, quả, ..; các con vật, tôm, cá, cua, ngao, ốc, gà, vịt...* Tổ chức các trò chơi.Tôi cũng tìm những trò chơi phù hợp với hoạt động có lồng ghép giáo dụcdinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩmm. Từ đó trẻ lĩnh hội kiến thức mộtcách nhẹ nhàng, nhớ lâu. Tôi đã sử dụng các trò chơi: Bé tập làm nội trợ, thi tàiphân loại các thực phẩm theo 4 nhóm chất, tôi thích ăn món nào, cùng mẹ đi chợ11vườn rau sạch của bé, trang trang trại gia đình, xếp chuồng cho các con vật,cùng chế biến món ăn...Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh đưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩmvào các tiết học. Việc tổ chức cho trẻ các trò chơi, tạo điều kiện để trẻ tiếp thuvà phản ánh những hiểu biết của mình về dinh dưỡng là hoạt động hết sức quantrọng. Trẻ được tiếp xúc với các đồ vật đồ chơi tạo điều kiện để trẻ tự học hỏinhau. Thể hiện sự hiểu biết của mình về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thựcphẩm.Qua các trò chơi tôi tạo điều kiện để trẻ vui chơi với đồ chơi, khi trẻ gọi têncác thực phẩm, trẻ học cách chế biến món ăn và trẻ được thực hiện các thao tácchế biến món ăn, cách chế biến thực phẩm và vệ sinh thực phẩm, vệ sinh cánhân và vệ sinh chung.2.4. Với hoạt động gócViệc tổ chức cho trẻ hoạt động góc với tất cả các góc mở giúp trẻ được trảinghiệm họat động của người lớn, trẻ được làm thí nghiệm, từ đó giúp trẻ hiểuthêm về dinh dưỡng.- Qua hoạt động góc: Trẻ gọi tên các thực phẩm, biết đặc điểm của các loạithực phẩm, trẻ tự học cách chế biến những thực phẩm thành những món ăn. Biếtcách tạo ra những thực phẩm trong cuộc sống, biết vệ sinh cá nhân và hành vivăn minh12Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ mua hàng muốn mua loại thực phẩm gì thì hỏingười bán hàng “Bác ơi, bác có bán đu đủ không?” người bán hàng nhớ đặcđiểm của trứng mà lấy bán cho người mua hàng từ đó giúp trẻ biết tên và nhớloại thực phẩm.Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ đóng vào con hỏi trẻ đóng vai mẹ “Mẹ ơi, mẹnấu món gì đấy?” Mẹ trả lời “mẹ nấu món trứng rán”. Từ đó giúp trẻ biết trứngđược chế biến thành những món ăn khác nhau.Cũng ở góc phân vai trẻ được trực tiếp chơi với những dụng cụ nấu ănbằng đồ chơi và biết cách thao tác các dụng cụ khi chế biến thực phẩm.Ví dụ: Khi thái thịt thì cần dao và thớt. Đồng thời trẻ cũng biết thao tácchế biến món ăn.Ví dụ : Muốn nấu món cá kho thì phải làm thịt cá, đánh vẩy, bỏ ruột, chogia vị và kho...Ở góc xây dựng giúp trẻ biết cách tạo ra thực phẩm tự trồng rau quả, nuôicác con vật qua trò chơi xây dựng vườn rau, quả, khu chuồng trại... Ở góc thiên13nhiên trẻ lại được trực tiếp trồng và chăm sóc rau quả, chăm sóc các con vậtnuôi ở góc học tập, góc nghệ thuật trẻ được chơi lô tô, được ra những bức tranh,được đọc thơ, ca dao, đồng dao, vè... Về các loại thực phẩm.Từ đó giúp trẻ nhớ thêm về các loại thực phẩm, biết các loại thực phẩmđược phân thành 4 nhóm, trẻ biết thêm được tầm quan trọng của các chất đối vớisự phát triển của trẻ. Việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm ởhoạt động góc có hiệu quả vô cùng to lớn để lại ấn tượng cho trẻ rất tốt.2.5. Thời điểm cho trẻ ăn.Ngoài việc lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩmvào các hoạt động trên việc giáo dục dinh dưỡng ở giờ ăn cũng rất quan trọng vàrất thực đối với trẻ.Ở giờ ăn: Trẻ học cách tự phục vụ bản thân, lấy ghế, bát, thìa, ... trẻ còngiúp nhau kê bàn ghế, biết vệ sinh cá nhân trước khi ăn, biết chào mời ngườikhác trước khi ăn, khi ăn trẻ biết giữ vệ sinh chung và những hành vi văn hóakhác...14Vào giờ chia ăn tôi tranh thủ giới thiệu các món ăn cho trẻ và thành phầncác món ăn chứa nhiều chất gì? Tác dụng của chất đó đối với cơ thể của trẻ,động viên trẻ ăn món đó tập ăn dần, lúc đầu ăn ít sau đó ăn đủ...Ví dụ: Tôi giới thiệu: Các con ơi! Hôm nay, các cô dinh dưỡng nấu chocác con ăn món “Cá súp cà chua,” ăn cá chứa nhiều chất đạm giúp cơ thể cáccon nhanh lớn, thông minh học giỏi vì vầy các con ăn cá nhé.2.6. Hoạt động chiềuTrong hoạt động chiều, khi trò chuyện với trẻ ở giờ trả trẻ tôi hỏi trẻ hômnay các con được ăn những món gì? Cung cấp chất gì? Để trẻ nhớ được tên mónăn và chất dinh dưỡng mà món ăn đó cung cấp. Đồng thời tôi cho trẻ quan sáttranh các loại rau củ quả, các con vật, chơi các trò chơi phân loại các chất dinhdưỡng theo 4 nhóm bằng lô tô, trò chơi bằng nhựa...*Kết quả: Tôi đã lồng ghép giáo dục dinh dưỡng váo các môn học như:làm quen với văn học, môi trường xung quanh, t¹o h×nh, ho¹t ®éng ngoµi trêi…,thể hiện rõ nhất vào hoạt động vui chơi của trẻ đó chính là hoạt động: “Bé tậplàm nội trợ”. Qua hoạt động này nội dung giáo dục dinh dưỡng được thể hiện15một cách nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Tôi đã dạy trẻ biết cách sử dụngthành thạo các đồ dùng như: thớt, dao, muỗm….ngoài ra còn biết chế biến mộtsố món ăn đơn giản thông thường.100% các cháu nắm được kiến thức về 4 nhóm thực phẩm. Biết giữ ghìnhành vi văn minh trong ăn uống.3. Phát động phụ huynh - học sinh tìm kiếm, sưu tầm các bài thơ, bàihát, câu chuyện, tranh ảnh…. Có nội dung về dinh dưỡng và vệ sinh antoàn thực phẩm.Để việc chuyển tải kiến thức dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đếntrẻ không bị nhàm chán, cứng nhắc ngoài sự sưu tầm của tôi thì bên cạnh đó tôicũng phát động phụ huynh - học sinh tìm kiếm sưu tầm sáng tác các bài thơ, câuđố, bài hát, trò chơi, tiểu phẩm và bài viết tuyên truyền về dinh dưỡng và vệ sinhan toàn thực phẩm phù hợp với yêu cầu của lứa tuổi.Như vậy thông qua các bài hát, bài thơ, câu đố, trò chơi mà bản thân tôi vàphụ huynh - học sinh sưu tầm được đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tổ chứclồng ghép, tích hợp, tạo sự hứng thú tham gia hoạt động của trẻ.Qua một năm phát động bản thân tôi và tập thể phụ huynh của lớp tôi đãthu được kết quả khá khả quan.* Sáng tác và sưu tầm được:+ 7 bài thơ.+ 17 câu đố.+ 6 bài hát.+ 3 bài tuyên truyền.+ 1 tiểu phẩm.Trong đó có 3 bài thơ được nhà trường đánh giá xếp loại A, 1bài hát đặt lờimới theo các làn điệu dân ca được nhà trường lựa chọn cho các bé dự cuộc thi“Bé khoẻ bé ngoan cấp huyện”; có 2 bài tuyên truyền được gửi sang đài truyềnthanh xã.164. Tự bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền cho bản thân.Công tác phối hợp vân động phụ huynh là đặc biệt quan trọng, vì thế đểbản thân phải có kỹ năng tuyên truyền, trình bày chuyển tải nội dung đến phụhuynh một cách tự tin, lưu loát, thuyết phục làm cho phụ huynh hiểu vấn đề đểcó thái độ hưởng ứng tốt tôi đã soạn thảo nội dung tuyên truyền sao cho ngắngọn, thiết thực với nhu cầu, ích lợi của phụ huynh. Muốn làm được điều đó tôiphải vững vàng lập trường quan điểm, hiểu tường tận chính xác vấn đề mình cầntruyền đạt để có thể giải đáp thắc mắc khi phụ huynh có yêu cầu. Những nộidung nào chưa làm cho phụ huynh thoả mãn, thì hẹn lại để giải đáp sau, đồngthời tôi luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của phụ huynh có như thế mớitạo được lòng tin đối với họ để họ có thái độ hợp tác với nhà trường trong côngtác chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và vấn đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinhan toàn thực phẩm nói riêng.Các hình thức tổ chức tuyên truyền:Tổ chức cho phụ huynh nghe báo cáo và toạ đàm về dinh dưỡng như:“Giá trị kiến thức dinh dưỡng cho trẻ mầm non”, nấu ăn duy trì dinhdưỡng, bệnh suy dinh dưỡng, bệnh viêm đường hô hấp, bệnh thuỷ đậu.Ngoài ra tôi cũng tham gia hội thi hội thi nấu ăn do trường Mầm Non NgaThái tổ chức được phụ huynh ủng hộ nhiệt tình và tích cực.Các hình thức tuyên truyền còn thể hiện ở bản tin phụ huynh cần biết, xembăng hình, nghe trên loa qua giờ đón trả trẻ và đài truyền thanh của xã vào cácbuổi sáng và buổi tối (phối hợp với trung tâm văn hoá xã).Thông qua tuyên truyền cho các bậc phụ huynh, kết quả về giáo dục dinhdưỡng được nâng lên cụ thể là:+ Bản thân tôi đã có kỹ năng tuyên truyền tốt.+ 90% phụ huynh đã nhận thức đầy đủ về công tác chăm sóc giáo dục trẻgóp phần thực hiện tốt chuyên đề.IV. KIỂM NGHIỆM:Qua thực hiện một số biện pháp trên, bản thân được trau dồi kiến thức vềnội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm.17Phụ huynh tín nhiệm tin yêu, họ yên tâm công tác vì con cái họ có kiếnthức về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm và được chăm sóc tốt khi trẻ ởtrường mầm non.Với trẻ có có tiến bộ rõ rệt, trẻ có kỹ năng phân loại thực phẩm theo 4nhóm, trẻ tự vệ sinh cá nhân, trẻ kể tên các món ăn mà trẻ biết thành thạo.Đối với các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việcgiáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, tạo điều kiện cùng cộng tácvới các cô giáo để việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm củatrẻ đạt hiệu quả cao nhất*Sau khi áp dụng các biện pháp vào tổ chức thực hiện tôi đã đạt đượckết quả sau:NộidungSố lượngVệ sinh cá nhânTTBKTổng 40 1517Tỷ lệ % 37.542.5 17.57Trẻ nhận biếtđược 4 nhóm thựcphẩmC§T116 17K2.5 40 42.5TBTrẻ kể tên cácmón ăn mà trẻbiếtKết qủa cân đoCHSVTTBC§KBT KSD D18 1660355045 4015087.512.50C§T7017.50KC. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.I. KẾT LUẬN:Qua quá trình nghiên cứu, chuyên đề giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh antoàn thực phẩm thì ban giám hiệu trường mầm non Nga Thái đã có kế hoạch cụthể rõ ràng, triển khai chuyên đề đến từng giáo viên một cách có hiệu quả thôngqua đó bản thân tôi đã nắm chắc được mục đích, yêu cầu nội dung của chuyênđề đã đặt ra để từ đó có phương pháp, biện pháp tổ chức một cách đồng loạt,thiết thực. Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực18phẩm cho trẻ bằng cách lồng ghép nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh antoàn thực phẩm qua các hoạt động trong ngày cho trẻ cũng chính là nâng caochất lượng hoạt động toàn diện. Đây là một trong những nội dung trọng tâm cơbản là một trong những tiêu chí xếp loại thi đua của trường.Trên đây là những kinh nghiệm qua quá trình thực hiện chuyên đề giáo dụcdinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, rất mong được sự góp ý của Ban giámhiệu nhà trường cũng như các bạn đồng nghiệp để tôi tổ chức thực hiện được tốthơn.II. ĐỀ XUẤT:Đề nghị các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương, phối hợp với trung tâmy tế dự phòng tỉnh, huyện quản lý chặt chẽ hơn nữa tới chất lượng các nguồnthực phẩm trên thị trường để tránh hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượngảnh hưởng đến đời sống và sức khoẻ con người.Tăng cường công tác phối kết hợp giữa y tế dự phòng, phòng chống suydinh dưỡng. Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an toànthực phẩm cho tất cả các đối tượng tham gia trực tiếp công tác chăm sóc nuôidưỡng trẻ.Tạo điều kiên về cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơitrong và ngoài lớp, trang thiết bị chăm sóc nuôi dưỡng, đồ dùng tiếp cận vớicông nghệ thông tin để đảm bảo chăm sóc trẻ được tốt hơn.Nga Thái, ngày 16 tháng 4 năm 2012Người thực hiệnPhạm Thị Nụ19