Ví dụ về ảnh hưởng của văn học dân gian đến văn học viết

Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học dân tộc chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học nầy bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. Văn học viết chịu ảnh hưởng văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật.

Ví dụ: Truyền thuyết Thánh Gióng đã mở đầu cho dòng văn học yêu nước, chống xâm lược trong nền văn học dân tộc. Thể thơ lục bát, thể thơ được thi hào Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình, bắt nguồn từ bộ phận văn vần dân gian…

Văn học viết cũng có ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Chẳng hạn, tác giả dân gian đã đưa những chất liệu văn học viết vào ca dao (những nhân vật trong Truyện Kiều, Lục Vân Tiên…).

Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm. Có thể nói, mảng truyện thơ Nôm khuyết danh là sự gặp gỡ của hai bộ phận văn học dân tộc.

Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng cho văn học viết tiếp thu. Trái lại, văn học viết có tác động trở lại làm văn học dân gian thêm phong phú, đa dạng.

Bài Làm:

 VD 1: “Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du) 

Sử dụng chất liệu từ câu ca dao: 

“Thức khuya, dậy sớm chuyên cần 

Quạt nồng ấp lạnh, giữ phần làm con” 

VD2: “Gần son thì đỏ, mực thì đen
Sáng, biết nhờ ơn thuở bóng đè”

(Nguyễn Bỉnh Khiêm) 

Sử dụng chất liệu từ câu tục ngữ: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

VD3:“Tóc mẹ thì bới sau đầu 

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn… “

(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Sử dụng chất liệu từ câu ca dao:

“Tay bưng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.

VD4:

"Con cò bay la

Con cò bay lả

Con cò cổng phủ

Con cò Đồng Đăng…"

(Con cò - Chế Lan Viên)

Sử dụng chất liệu từ câu ca dao:

Con cò bay lả bay la

Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng

Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay về Đồng Đăng.

Trong: Soạn văn 9 VNEN bài 33: Tổng kết phần văn học thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi

Nêu những điểm phân biệt văn học dân gian với văn học viết.

Hoàn thành phiếu học tập sau vào vở:

Hãy cụ thể hoá các nội dung sau đây bằng những cách diễn đạt khác nhau:

Ghi lại vào vở định nghĩa về các thể loại văn học dân gian theo mẫu:

Hoàn chỉnh lần lượt ba bức điện ở mục 2 theo mẫu sau đây...

Hoàn chỉnh một bức điện chúc mừng theo mẫu tự đề xuất.

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊNSỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO -----    ----- ẢNH HƯỞNG VĂN HỌC DÂN GIAN VỚI VĂN HỌC VIẾT VIỆT NAM Người thực hiện : ĐẶNG THỊ HỒØNG ĐÀOĐơn vò: TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH A. MỞ ĐÂÀU:“Từ ngày ăn phải miếng trầu1TPTuy hòa, 5 /2008Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêuBiết là thuốc dấu hay bùa yêuLàm cho thiếp phải nhiều điều xót xaLàm cho quên mẹ quên cha Làm cho quên cửa quên nhàLàm cho quên cá dưới aoQuên trăng dưới nước, quên sao trên trời”Bài ca dao là một trong những bài ca dao thuộc chủ đề ca dao yêu thương, tình nghóa, mà cụ thể hơn là một tình yêu trong sáng nhưng cũng pha chút hài hước, lãng mạn giữa đôi trai gái. Nhà thơ Xuân Diệu đã nói: “Không chờ đợi thơ chính quy, thơ chuyên nghiệp diễn tả hộ mình, những người lao động đã thế kỉ này qua thế kỉkhác, diễn tả trực tiếp lòng yêu thương, sướng vui, đau khổ” (Sách Ngữ văn 10NC, trang 102). Như vậy, từ trước lúc “thơ chính quy, thơ chuyên nghiệp” ra đời thì những người lao động gởi gắm cả tình cảm, ước mơ lẫn khát vọng vào trong những vần ca dao ngắn ngủi nhưng lại xúc tích, hàm chứa nhiều điều. Ca dao, hay nói cách khác là văn học dân gian, đã có một chỗ đứng rất quan trọng trong đời sống tinh thần cần được bộc lộ của người bình dân, đóng một vai trò khá lớn trong việc phê phán xã hội phong kiến – nửa thực dân, lên án giai cấp thống trò áp bức, bóc lột nhân dân. Vậy từ khi “thơ chính quy, thơ chuyên nghiệp” chính thức ra đời từ khoảng thế kỉ thứ X thì nó đã giúp cho người bình dân “diễn tả trực tiếp lòng yêu thương, vui sướn, đau khổ” hay chưa? Liệu văn học dân gian có còn đóng vai trò quan trọng, hay nói đúng hơn có còn ảnh hưởng đến văn học viết nữa hay không? Có còn xứg đáng là “bộ sách giáo khoa về cuộc sống” để các tác giả văn học viết học tập hay không?I. Văn học dân gian trong tiến trình văn học dân tộc:- Trong tiến trình văn học dân tộc, văn học dân gian ra đời từ rất sớm, những thần thoại, những truyền thuyết từ thû lạp nước đến nay (Văn Lang, Âu Lc) thuộc vào hàng di sản cổ xưa nhất trong nền văn học dân tộc đã minh chứng cho sự ra đời của văn học dân gian.- Và khi văn học viết ra đời thì văn học dân gian vẫn tiếp tục phát triển bên cạnh người bình dân, ảnh hưởng không nhỏ đến các tầng lớp tri thức của văn học viết. Trong suốt tiến trình ấy, văn học dân gian vẫn gắn bó với đời sống và tư tưởng “diễn tả trực tiếp lòng yêu thương, sướng vui, đau khổ” của quần chúng lao động đông đảo trong xã hội.- Văn học dân gian Việt Nam có nội dung phong phú, phản ánh cuộc sống thể hiện lý tưởng xã hội và đạo đức của nhân dân lao động các dân tộc cung cấp tri 2thức có ích về tự nhiên và xã hội, bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp, chứa đựng cả một kho tàng các truyền thống nghệ thuật dân tộc.II. Văn học dân gian có một vò trí và vai trò như thế nào đối với văn học viết?- “Ở Việt Nam, văn học dân gian có vò trí vai trò rất quan. Trong hàng nghìn năm Bắc thuộc và ở các thời kì dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ cập, văn học dân gian đã đóng góp to lớn trong việc gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa của văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của văn học viết từ nội dung đến hình thức” (Sách NV 10 nâng cao, tập trung I trang 6). Từ thû nghìn năm Bắc thuộc, văn học dân gian đã có một vò thế quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động khi chữ viết “chưa có hoặc chưa phổ cập”, văn học dân gian đã “gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc”, nuôi dưỡng tâ hồn nhân dân”. Bỡi có một vò trí như thế nên văn học dân gian có vai trò như “người diễn tả hộ” tình cảm lẫn tư tưởng của nhân dân lao động. Tương truyền, trước khi diễn ra cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Trưng Trắc đã đọc thề, về sau được viết thành thơ:“Một xin rửa sạch nước thùHai xin đem lại nghiệp xưa họ HùngBa kẻo oan ức lòng chồngBốn xin vẹn sở công lênh này”Bốn câu thơ trên được trích từ “Tiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế kỉ XVII” đã thể hiện được mục đích của cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng là “đền nợ nước, trả thù nhà”, quét sạch bọn xâm lược Hán ra khỏi nước Âu Lạc và để nhớ về lời thề nguyện của bà, nhân dân đã gói gọn trong bốn câu thơ. Chả thế mà đến Lê Văn Hư, nhà sử học thế kit XIII, cũng phải khen rằng “Trưng Trắc, Trưng Nhò là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở tỉnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp Bá vương”!III Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết:- “Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của văn học viết từ nội dung đến hình thức”. Văn học dân gian ra đời sớm hơn văn học viết nhưng lại tồn tại song song với văn học viết, truyền cho văn học viết một sức sống mới, tặng cho người đọc những bài viết, tác phẩm có sức lay động tình 3cảm người bình dân. Có nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm hay chữ quốc ngữ sở dó có sức tồn tại lâu dài là bỡi được phổ cập rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân một phần do tác giả tiếp thu một cách sáng tạo giá trò nội dung và kinh nghiệm nghệ thuật của vănhọc dân gian. Và trong sự nghiệp xây dựng nền văn học đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay thì văn học dân gian vẫn luôn được coi là một nguồn nước vô tận cho sự sáng tạo nghệ thuật. Văn học dân gian giống như một người anh song sinh của văn học viết, vì sinh ra trước cho nên chòu một ít “gian khổ” là lẽ đương nhiên. Và vì “sinh sau đẻ muộn” từ văn học dân gian. Vì thế, một số trí thức của văn học viết (như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…) đã sáng tác những tác phẩm để đời là nhờ một phần tư tưởng và sinh hoạt gần gũi với nhân dân lao động, hiểu và vận dụng một cách tài tình ngôn ngữ mang tính bình dân.1. Tìm hiểu sự ảnh hưởng của văn học dân gian trong các tác phẩm của Nguyễn Du: “Học như mọi người, thu hoạch như tất cả người thu hoạch ca dao, học tính giai cấp trong đó, học lập trường của những người lao động, học cái hiện thực của việc đời qua mấy nghìn năm trong đó học các tương quan xã hội, học các tương quan nam nữ trong các chế độ cũ, học tên đất, tên nước, tên sao, tên cá, tên chim muông, tên hoa cỏ… học máu và mồ hôi, nước mắt và nụ cười của những con người… Nhưng nói hẹp hơn, các nhà thơ học được thơ ở trong ca dao” (Xuân Diệu) “Các nhà thơ học những gì ở ca dao?” (tạp chí Văn học, số 1-1967). Như vậy, nhà thơ Xuân Diệu muốn các nhà thơ thế hệ sau học tập tất cả những gì có thể học được từ ca dao, từ những cái đơn giản nhất “tên đất, tên nước, tên sao, tên cá, tên chim muông, tên hoa cỏ” cho đến những cái phức tạp “học tính giai cấp, học lập trường, học cái hiện thực của việc đời…”- Nhờ có cuộc sống phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc (1786-1796) rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tónh (1796-1802), nên Nguyễn Du có được vốn kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hoá dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Sự ngiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trò bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm nhưng tác phẩm mà ông dành nhiều thời gian và tâm sức nhất là “Truyện Kiều” là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương tiện ngôn ngữ, thể loại. Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ, thế nên tác phẩm được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả là lẽ đương nhiên!- Trước tiên, tôi xin mạn phép được đưa mọi người quay trở về quá khứ của Nguyễn Du, cái thời kì mà xã hội phong kiến đã dần suy yếu nhưng còn đủ sức để ngực trò con người. Những bọn quan lại đại thần miệng nói nhân nghóa nhưng lại khôn khéo:4“Không lộ vuốt nanh cùng nọc độcMà xé thòt người nhai ngọt xớt!”Cả “Truyện Kiều” là một bản cáo trạng cái xã hội phong kiến áp bức; nàng Thuý Kiều tài tình xinh đẹp, thanh q bò đem bán như món hàng, như thú vật đắt tiền nào đó. Mã Giám Sinh đến mua đã tàn nhẫn:“Cò kè thêm bớt một haiGiờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”Thì mò Bạc Hạnh đem Kiều bán đi còn tàn nhẫn hơn:“Xem người đònh giá vừa rồiMối hàng một đã ra mười, thì buông!”(Trước khi “buông” thì phải nắm thật chặt! Một vốn bốn lời, năm lời, sáu lời, bảy lời vẫn không buông. Một mười lời, tức thì buông ra không chút quyến luyến, không thương tiếc!)- Câu chuyện về cuộc đời cô Kiều là một hiện thực vó đại, là một cuốn tiểu sử của một xã hội thối nát. Sau cảnh vu oan, tra tấn, hối lộ vỡ lòng là một dây kéo theo những oan khốc, cảnh buôn người, cảnh làm gái lầu xanh, đánh đập, cảnh lừa gạt một phụ nữ, cảnh đánh ghen lạ đời, cảnh lừa giết một anh hùng… Cái xã hội gì mà “đầu trâu mặt người ào ào như sôi” mà “khốc quỷ kinh thần mọc ra” còn như “thây vô chủ bên sông” thì bất kể ngày đêm, lúc nào cũng sẵn có! Cái uy quyền gì mà người ta đến mách cho một vài tin tức thì đã “đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng” cốt lập thâm mưu về sau! Cái thứ “mặt sắt” Hồ Tôn Hiến gì mà cũng “ngây vì tình” ng trang bằng rượu, khiến ông tơ hồng phải động theo, vơ lấy tơ mà xe nhăng xe nhít. Còn đồng tiền thì thật đáng kinh tởm, dính đầy máu và nước mắt của người lương thiện: Tú BÀ “máu tham hễ thấy hơi đồng là mê”, bọn quan lại thì đòi trám miệng, nhăng nhít như đám ruồi nhặng bu vào miếng thòt:“Là gì cái thói sai nhaLàm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”Những mụ Tú Bà giờ đây không còn nữa nhưng ai có một lần đọc qua “Truyện Kiều” thì mụ vẫn có sống mãi trong tâm trí người đọc với cái cơn nổi tam bành có một không hai cùng cái giọng the thá:“Này này sự đã giả nhiênThôi đà cướp sống chồng mi đi rồi!”Bảo rằng: đi dạo lấy ngướiĐem về rước khách kiếm lời mà ăn5Tuồng vô nghóa, ở bất nhânBuồn mình trước đã tần mần thử chơiMàu hồ đã mất đi rồi(bù lu, bù loa) Thôi thôi vốn liếng đi đơi nhà ma!(nanh nọc) Con kia đã bán cho taNhập gia phải cứ phép nhà ta đâyLão kia có giở bài bâyChẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!Cớ sao chòu tốt một bề(đay nghiến) Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!“Phải làm cho biết phép ta!”Chập bì tiên, rắp sấn vào ra tay!Trời đất ơi! Tú Bà nói chưa đầy nửa phút mà bọt mép của mụ văng ra mãi đến ngàn năm! Tưởng như “mưa bay” tới tấp vào mặt ấy, mụ nói cứ như xé rách cả trang giấy viết của Nguyễn Du ấy! Tuy nhiên xã hội ta vẫn chưa diệt hết hạng người áy, chứng cứ sống dai khiến người ta nhớ như in dáng điệu không lẫn vào đâu “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao” của mụ! Không còn cô Hoạn Thư trong cái cách sai tay chân đi đốt nhà, bắt người về hành hạ nhưng cái mưu mô của mụ thì quả là sâu sắc, khi ta cợt nghó đến vẫn còn “sởn da gà”. Nhân vật Hoạn Thư là một sáng tạo thật ly kì, thật hiếm có nhưng lại rất thật! Nhưng nếu cuộc đời ta đang xây dựng không còn những anh Thúc Sinh thì không bao giờ còn mụ Hoạn Thư! Cái anh Thúc Sinh sợ vợ, không chút khí phách đàn ông nhưng lại tốt bụng hiền lành. Còn cái tên “Sở Khanh, thật đúng với cái tên của hắn. Từ anh Sở Khanh cưỡi ngựa chuồn mất trong “Truyện Kiều” đến những anh Sở Khanh trong đời thường không đi ngựa mà đi bộ, đi xe đạp hay ô tô mà người ta vẫn cứ nhớ cái “Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!” Bỡi nó rất điển hình cho tính “anh hùng rơm” của gã, chỉ biết đấm ngực kêu thời nhưng rốt cuộc chỉ là cái mắt mo mà nàng Kiều muốn lờ đi.Nếu nói về cách sử dụng ngôn từ, ca dao , tục ngữ một cách nhuần nhuyễn trong tác phẩm “Truyện Kiều” thì không thể tìm người thứ hai ngoài Nguyễn Du. Tôi lấy ví dung trong đoạn trích” Chò Em Thuý Kiều”“ Kiều càng sắc sảo mặn màSo bề tài sắc lại là phần hơnLàm thu thuỷ nét xuân sơn6Hoa ghen tha thắm liểu hờn kém xanhMột hai nghiêng nước nghiêng thànhSắc đành đòi một tài đành hoạ hai”Chỉ trong sáu câu thơ mà Nguyễn Du sử dụng một điển tích và hai hình ảnh ẩn dụ. Nguyễn Du sử dụng điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” để phụ hoạ làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều, khiến nười ta cũng phải say mê đến nổi mất thành, mất nước.“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”, lại một hình ảnh ẩn dụ miêu tả vẻ đẹp trời cho của nàng, đôi mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày như nét của mùa xuân. Chả thế mà đến thiên nhiên cũng phải “Hoa ghen”, “liễu hờn”. Các bức tranh của Nguyễn Du mang cái đặc tính và nhưựoc điểm của văn chương cổ điển: tả người một cách tuyệt đối hoá, tất phải đẹp nhất và tài nhất, đàn ông thì văn chương nết đất, thông minh tính trời còn đàn bà thì “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”. Tuy nhiên, Nguyễn Du có phóng đại về nội dung, mà hình thức văn thì kiệm, ít lời nhiều chất thể nên người đọc vẫn còn thấy phải chăng.Còn Thuý Vân:“Hoa cười ngọc thốt đoan trangMây thua nước tóc tuyết nhường màu da”“Thốt” cũng có nghóa là nói, nhưng nếu để “Hoa cười ngọc nói” thì chữ “ Nói” bò ảnh hưởng của chữ cười, thế thì hoá ra “Cười nói” mà cười nói nói chẳng hoá ra nói nhiều. Chữ “ Thốt” là thỉnh thoảng mới nói ( Lấy từ câu tục ngữ “ Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” ) đáng mới nói, nghó rồi mới thốt ra, có thể mới “ Đoan trang”. Thuý Vân cũng rất đẹp, điều đó không còn bàn cãi gì nữa, nhưng lại đẹp một cách phúc hậu “Khuôn trăng đầy đặn” nói nôn na ra là “Phinh phính đôi má bánh đúc”, cho nên “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thua xong, nhường xong là yên ổn. Còn Thuý Kiều cũng rất đẹp nhưng đẹp theo lối “Chim sa cá lặn” ( Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh ). Hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải kém Thuý Kiều, chúng nó “hờn”, “ghen” và chúng sẽ trả thù và nàng Kiều sẽ phải lắm phen long đong, lận đận, truân chuyên với chúng! Thật là một kết quả dự báo gần như là chính xác đối với thời điểm đó!- Điển tích mà Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm của mình không phải lời ít, mà ngược lại rất phong phú đằng khác. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, mở đầu là câu “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”. Điển tích mà Nguyễn Du sử dụng ở đây là điển tích “Khoá xuân toả nhò Kiều” nói về việc vua Tần cho bắt nhốt hai người con gái đẹp nhất là Đại Kiều và Tiểu Kiều vào trong cung để họ phải chết mòn mỏi. Không biết là hữu hay vô ý mà cô Kiều của chúng ta lại có tên giống hệt người con gái trong điển tích. Há chẳng phải Nguyễn Du có ý rằng nàng 7Kiều sau lần tự tử không chất, bò mụ Tú giam vào lầu Ngưng Bích như “cá cắn câu”, “chim vào lồng” đó sao? Hay điển tích “Sân Lai” trong câu “Sân Lai cách mấy nắng mưa” (Lão Lai Tử dù đã có tuổi nhưng vẫn còn mặc áo sặc sỡ để mua vui cho cha mẹ) cũng thể hiện được sự hiếu thuận của nàng Kiều, một lòng hướng về cha mẹ hay sao? Còn trong đoạn:“Nàng rằng: nghóa nặng nhìn nonLâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòngTại ai há dám phụ lòng cố nhân?”“Sâm Thương” chính là sao Kim, một hành tinh trong hệ Mặt Trời, nhưng người xưa cho là hai ngôi sao, một ở phía đông và một ở phía tây, sao này mọc, sao kia lăn. Nguyễn Du dùng “Sâm Thương” để chỉ sự cách biệt không bao giờ gặp nhau giữa Thuý Kiều và Thúc Sinh. Thúc Sinh đi rồi, Kiều không thể nào làm “vẹn chữ lòng”. “Người cũ” và “cố nhân” đều đồng nghóa với nhau và đều chỉ Thúc Sinh, thể hiện sự biết ơn của nàng trước hành động nghóa hiệp của Sinh: cứu nàng ra khỏi lầu xah lần thứ nhất.- Do có cả một thời gian chỉ sống giữa nhân dân cho nên Nguyễn Du có hẳn cảmột kho tục ngữ, ca dao để vận dụng vào trong thơ của mình. Ví như đoạn Thuý Kiều gợi nhắc đến Hoạn Thư trong lúc đối thoại với Thúc Sinh trong đoạn trích “Thuý kiều báo ân, báo oán”“Vợ chàng quỷ quái tinh maPhen này kẻ cắp bà già gặp nhauKiến bò miệng chén chưa lâuMưu sâu cũng thoả nghóa sâu cho vừa”Nhắc đến Thúc Sinh, Kiều không thể không nhớ đến ả Hoạn Thư, cái kẻ đã cho bọn ưng, Khuyển đốt nhà, bắt cóc nàng về để đánh ghen. Khi cái anh chàng sợ vợ kia đã nói thực lòng mình:“Liệu mà cao chạy xa bayÁi ân ta có ngần này mà thôi”thì cũng chính là lúc mà nàng Kiều bắt đầu cho một đời làm a hoàn, hoa nô cho nhà họ Hoạn. Ả năm lần bảy lượt hành hạ Kiều một cách khốc liệt nhất, bắt nang đánh đàn cho hai vợ chồng ả nghe, nhưng thực ra:“Cùng trong một tiếng tơ đồngngười ngoài cười nụ người trong khóc thầm”8