Truyền thống văn hóa phong tục tập quán

ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM Trong VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG - Tiểu luận cuối kỳ nhóm 6

Preview text

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA DU LỊCH HỌC

-----***----

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

MÔN: PHONG TỤC, TẬP QUÁN, LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích vai trò của phong tục, tập quán và lễ hội

truyền thống vùng Đồng bằng sông Hồng trong phát triển du lịch. Làm rõ

bằng ví dụ cụ thể.

Giảng viên: Nguyễn Hoàng Phương

Họ và tên: Nguyễn Thị Hoàng Diệu

Mã sinh viên: 19031625

Ngành: Quản trị khách sạn

Lớp: TOU1154 2

Hà Nội, tháng 5 năm 2022

PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA PHONG TỤC, TẬP QUÁN VÀ LỄ HỘI

TRUYỀN THỐNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG QUÁ TRÌNH

PHÁT TRIỂN DU LỊCH

Nguyễn Thị Hoàng Diệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

Tóm tắt: Đồng bằng sông Hồng là cái nôi của những phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống của Việt Nam. Đặc biệt, những phong tục, tập quán và các lễ hội truyền thống của vùng đồng bằng sông Hồng vô cùng đa dạng và phản ánh đậm nét nhân sinh quan, bản sắc văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Những loại hình tín ngưỡng phong phú và đa dạng của khu vực này đang được phục hồi và phát triển theo dòng chảy của thời đại và sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, trong đó phải nhắc đến ngành du lịch. Điều này cho thấy sự đặc sắc và phong phú của phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống của đồng bằng sông Hồng có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân. Chính nhờ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa đã góp phần tạo nên một khu du lịch tại vùng đồng bằng sông Hồng đầy hấp dẫn và mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, nhờ sự đầu tư và khai thác tốt các tài nguyên văn hóa, đồng bằng sông Hồng đã thu hút được lượng lớn khách du lịch tham quan hàng năm, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển du lịch.

Từ khóa: văn hóa, phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống, đồng bằng sông Hồng, du lịch, du lịch văn hóa.

MỞ ĐẦU

Nền văn minh sông Hồng đã được hình thành từ thuở xa xưa, tuy không sớm và có sức lan tỏa rộng như những nền văn minh khác nhưng nó lại chứa đựng nhiều giá trị và nét đặc trưng riêng biệt. Trong sinh hoạt tinh thần của người dân đồng bằng sông Hồng hiện nay, những phong tục, tập quán, lễ hội đã trở thành một phần cuộc sống họ, nó được bộc lộ qua từng hoạt động, thể hiện tinh thần và tư tưởng của người dân nơi đây. Nếu phong tục, tập quán là những thói quen văn hóa được hình thành lâu đời trong đời sống con người, thể hiện những chuẩn mực văn hóa thì lễ hội là hoạt động liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo nằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần và nâng cao giá trị đạo đức, lối sống của nhân dân. Tuy nhiên, theo dòng chảy thời gian, một số phong tục, tập quán, lễ hội đang dần biến đổi để trở nên phù hợp với tư tưởng, suy nghĩ của xã hội hiện đại.

Hiện nay, phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống không chỉ có vai trò trong đời sống tinh thần của con người, mà nó còn đóng góp cho sự phát triển của kinh tế -xã hội của đồng bằng sông Hồng nói riêng và Việt Nam nói chung, trong đó có ngành du lịchăn hóa là một yếu tố không thể thiếu để hình thành loại hình du lịch văn hóa, góp phần tạo nên một loại hình du lịch riêng biệt, độc nhất và không bao giờ trùng lặp với một quốc gia nào.

Đối với sự phát triển kinh tế tại Việt Nam, du lịch ngày cảng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, là ngành đóng góp GDP rất lớn cho kinh tế nước nhà. Đối với du lịch Việt Nam, du lịch văn hóa có nhiều lợi thế làm bệ đỡ cho một nền công nghiệp du lịch chuyên nghiệp trong tương lai. Bên cạnh những loại hình du lịch: du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm, du lịch khám chữa bệnh, du lịch giáo dục,.. thì du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách quốc tế.

Chính vì vậy, cần có sự nhận diện đúng về thực trạng của phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống tại khu vực đồng bằng sông Hồng nói riêng và của Việt Nam nói chung và đánh giá chính xác vai trò của nó để có những chính sách, phương pháp khai thác chính xác, vẫn có thể thúc đẩy quá trong quá trình phát triển du lịch nhưng cũng giữ gìn, bảo lưu những giá trị tốt đẹp mà văn hóa mang lại.

NỘI DUNG

  1. Các khái niệm liên quan:
  1. Khái niệm về phong tục, tập quán: Phong tục tập quán là nét đẹp, điểm nhấn trong nền văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia. Phong tục tập quán của mỗi nơi lại mang màu sắc riêng biệt, cùng những ý nghĩa truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, có rất nhiều ý kiến về khái niệm của phong tục tập quán.

Đầu tiên, phong tục tập quán là gì? Theo từ điển tiếng Việt giải thích: “ Phong tục là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”.

Phong tục được hiểu là những hoạt động sống của con người, được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử và ổn định thành nề nếp, được mọi thành viên trong cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện có tính kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác trong cộng đồng nhất định.

Phong tục được vận dụng linh hoạt và nó không phải là một nguyên tắc bắt buộc, nhưng phong tục không thể tuỳ tiện, nhất thời và thay đổi mạnh mẽ như các quan hệ đời thường.

Phong tục có thể chia thành nhiều loại: Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người, mà với cư dân nông nghiệp là từ đất gieo hạt, cấy hái đến thu hoạch, với ngư dân là theo mùa đánh bắt cá,... Hệ thống các phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm như phong tục mùa xuân, mùa hè, mùa thu, mùa đông.

Phong tục là một bộ phận của văn hóa,có vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền thống của một dân tộc, một địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí chế định nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng.

Tập quán là gì? Từ điển Tiếng Việt giải thích: “ Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, được mọi người công nhận và làm theo.”

Xét về mặt dân tộc và văn hoá – xã hội thì tập quán được hiểu dựa trên những nét cơ bản là những phương thức ứng xử giữa người với người đã được định hình và được xem như một dấu ấn, một điểm nhấn tạo thành nề nếp, trật tự trong lối sống của cá nhân trong quan hệ nhiều mặt tại một cộng đồng dân cư nhất định.

Trong khi đó, tại Khoản 1 Điều 5 Bộ luật dân sự 2015 đưa ra khái niệm tập quán như sau: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều

Trong cuốn “ Lễ hội cổ truyền” – Phan Đăng Nhật cho rằng “ Lễ hội là một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc............... Lễ hội còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai”.

Trong cuốn “Văn hóa du lịch” – Nguyễn Phạm Hùng cho rằng: “Lễ hội là sự tích tụ cô đọng nhất văn hóa của một dân tộc, vùng miền. Xét trên một phương diện nhất định, lễ hội là những hoạt động cộng đồng đông đảo có tính tôn giáo, tín ngưỡng thiêng liên, trang trọng, được diễn ra trong những không gian và thời gian cố định, mang tính lịch sử và tính dân tộc rõ rệt”.

Như vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ là phần đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. Hội là các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan trọng với cả cộng đồng.

  1. Khái niệm du lịch văn hóa Có thể hiểu, du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân các giá trị văn hóa nhân văn khi họ trải nghiệm ở những vùng đất mới, cộng đồng mới. Đó có thể là những di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuât, phong tục tập quán của cộng đồng dân cư nơi mà du khách đặt chân đến. Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa cộng đồng và các dân tộc trên thế giới được mở rộng, dẫn tới việc giao lưu văn hoá, tìm kiếm những giá trị về nền văn hoá nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một nhu cầu cho nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn là nghỉ ngơi giải trí đơn thuần, mà còn là hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dụng bổ sung tri thức, làm phong phú đời sống tinh thần của con người. Đó chính là nội hàm của khái niệm du lịch văn hoá.

Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá, các giá trị vật chất cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể phân chia du lịch văn hoá ra nhiều loại:

  • Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là chủ yếu mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu, nghiên cứu. Đối tượng khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên - đó là các chương trình du lịch dã ngoại đến các làng dân tộc ít người thuộc các tỉnh Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu,... để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá của các dân tộc đó. Khách sẽ đi bộ khi tham quan các bản làng và thường nghỉ qua đêm tại các bản làng đó.
  • Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất. Du khách thường kết hợp giữa tham quan với nghiên cứu tìm hiểu văn hoá trong một chuyến đi. Đối tượng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú, bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan, vừa để nghiên cứu còn có những khách chỉ để chiêm ngưỡng để biết, để thoả mãn sự tò mò,... Do vậy, trong một chuyến du lịch, du khách thường đi đến nhiều điểm du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có những điểm du

lịch núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, ... Đối tượng khách là những người ưa mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những người trẻ tuổi.

  • Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác: mục đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tượng của loại hình này là những người đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các cuộc triển lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong phú, có chất lượng cao, qui trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng thanh toán cao nhưng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công vụ.

II. Đặc điểm phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống tại đồng bằng sông Hồng:

  1. Tổng quan về khu vực đồng bằng sông Hồng: Đồng bằng sông Hồng là vùng đất mang nhiều nét truyền thống của văn hóa Việt Nam. Đây được coi là cái nôi của văn hoá-lịch sử dân tộc. Đồng bằng sông Hồng (hay Châu thổ Bắc Bộ) là khu vực hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình thuộc Bắc Bộ Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng bao gồm 10 tỉnh thành, trong đó có 2 thành phố trực thuộc trung ương, 8 tỉnh và 12 thành phố thuộc tỉnh. Các tỉnh thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Hồng gồm: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thái Bình , Nam Định, Ninh Bình. Về vị trí địa lý, đồng bằng sông Hồng là cầu nối giữa vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, thuận lợi giao lưu với các vùng khác trong cả nước và mở rộng giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vùng đồng bằng sông Hồng bao gồm đồng bằng châu thổ màu mỡ, dải đất rìa trung du với một số tài nguyên khoáng sản, tài nguyên du lịch và vịnh Bắc Bộ giàu tiềm năng. Nhờ có thủ đô Hà Nội nên đồng bằng sông Hồng giữ vị trí trung tâm kinh tế, khoa học kĩ thuật và văn hoá của cả nước. Sân bay Nội Bài, cảng Hải Phòng là cửa ngõ mở ra khu vực và thế giới. Vì thế đồng bằng sông Hồng có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nhưng cũng chính vị trí địa lí này tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi về giao lưu và tiếp thutinh hoa văn hóa nhân loại.

Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển. Toàn vùng cũng như trong mỗi vùng, địa hình cao thấp không đều, tại vùng có địa hình cao vẫn có nơi thấp úng như Gia Lương (Bắc Ninh), có núi Thiên Thai, nhưng vẫn là vùng trũng, như Nam Định, Hà Nam là vùng thấp nhưngvẫn có núi như Chương Sơn, núi Đọi v...

Mặt khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn những đồng bằng khác.Đồng bằng Bắc Bộ có một mùa đông thực sự với ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18độ, do đó mà có dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa tương đối rõ nét, khiến vùng này cấy được vụ lúa ít hơn các vùng khác. Hơn nữa, khí hậu vùng này lại rất thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, rất khó chịu, gió mùa hè nóng và ẩm.

Một đặc điểm nữa là môi trường nước, đồng bằng Bắc Bộ có một mạng lưới sông ngòi khá dày, khoảng 0,5 – l,0km/km2, gồm các dòng sông lớn như sông Hồng, sôngThái

chú ý tăng phần thịt và phần mỡ, nhất là vào mùa đông lạnh để giữ nhiệt cho cơ thể. Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại không có mặt trong bữa ăn của người Việt Bắc bộ nhiều lắm.

Cách ăn mặc của người dân đồng bằng sông Hồng nói riêng và người dân Bắc bộ nói chung cũng là một sự lựa chọn để thức ứng với điều kiện tự nhiên nơi đây. Vào thời kỳ Hùng Vương, sự phát triển của nghề trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa giúp cho người Việt cổ Bắc Bộ ăn mặc ngày càng đẹp hơn. Nữ thường mặc váy, loại ngắn hoặc dài, đôi lúc có khâu thêm một mảnh vải vuông vắn có trang trí hoa văn ở trước bụng; phụ nữ thường mặc yếm; áo cánh hoặc áo chui đầu. Ngày lễ hội, họ mặc váy xoè, cắm thêm lông chim hoặc cả lá cây. Tóc ít khi để oax mà thường được búi lên ở đỉnh đầu hoặc tết theo nhiều kiểu khác nhau. Có lúc họ buộc một tấm khăn cởi trần, mặc khố, đầu cạo trọc. Dân sống ven sông thường có tục vẽ mình để tránh “giao long” làm hại. Các lạc hầu, lạc tướng có áo giáp đồng hộ than khi đi chiến đấu. Nối tiếp truyền thống làm đẹp của tổ tiên, người Việt cổ thích trang sức các dây chuyền bằng vỏ ốc, hạt đá hoặc đeo hoa tai, vòng tay bằng đá. Thời phong kiến, đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sồng. Đàn bà cũng chiệc váy thâm, chiếc váy nâu khi đi làm. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với chiếc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen.

Tập quán làm việc – Làng nghề truyền thống Khi nói về nét đẹp văn hoá vùng châu thổ Bắc Bộ, người ta không thể không nhắc đến những làng nghề thủ công đã có lịch sử phát triển cách đây hàng trăm năm. Đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu Piere Gourou đã đếm được 108 nghề thủ công ở 7000 làng thuộc vùng châu thổ sông Hồng. ở đây có tới 500 làng nghề, tập trung nhiều nhất ở Nam Định, Hà tây, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hà Nội. Đặc biệt, Thăng Long - Hà Nội là nơi “đát lành chim đậu”, hội tụ tài hoa,thu hút những thợ cả, thợ giỏi từ mọi miền đến sinh cơ lập nghiệp.

Hà Nội có Ngũ Xã Tràng, nổi tiếng với nghề đúc đồng, do dân năm làng gốc ở huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc lập nên từ thế kỷ XVII, là tác giả của những pho tượng đồng vào loại quý giá nhấtnước Nam. Đó là tượng Trấn Vũ bằng đồng đen cao 4m, nặng 4 tấn được đúc năm 1681, là quả chuông đồng cao gần 1,5m treo ở tam quan đền, là tượng Di Đà cao 3,95m, nặng10 tấn với toà sen đặt tượng nặng 1,6 tấn đồng. Hà Nội có làng gốm sứ Bát Tràng có lịch sử 500 năm, do những người thợ gốm tài ba từ Thanh Hoá ra gây dựng từ cuối thế kỷ XV. Và tất nhiên, nhắc tới Hà Nội, người ta cũng không quên một làng giấy phía Nam Hồ Tây, đã rất nổi tiếng trong câu ca dau “Mịt mù khói toả ngàn sương, Nhịn chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”, làng Thậm Thình, có truyền thống lịch sử 500 năm. Từ Hà Nội ngược về phía Đông Bắc, ta đến với miền đất trù phú “bên kia sông Đuống”, với làng tranh Đông Hồ. Tranh Đông Hồ, từ chất liệu đếnđề tài, tư tưởng, phong cách nghệ thuật đều rất dân gian và đậm đà màu sắc dân tộc. Đề tài tranh Đông Hồ rất đỗi bình dị, phản ánh đời sống lao động, sinh hoạt thường ngày củangười dân quê Việt Nam, tiêu biểu là tranh “đánh ghen”, “hứng dừa”, “đám cưới chuột”.... Xuôi về phía Nam, ta đến với các làng nghề lụa Hà Đông (Hà Tây), đũi Nam Cao (Thái Bình),... Muôn bàn tay khéo léo tài hoa đã hội tụ lại trên mảnh đất châu thổ trù phú này, thời nào cũng thế, đã

vun đắp làm đẹp cho đời, làm phong phú cuộc sống, giàu có tâm hồn, nối tiếp truyền thống của nền văn minh sông Hồng, văn minh Đại Việt, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến vào thiên niên kỷ thứ ba.

Phong tục, tập quán văn hóa dân gian Bên cạnh đó, vùng châu thổ Bắc Bộ, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng có một kho báu vô giá truyền từ đời nọ sang đời kia. Đó là một kho tàng di sản văn hoá phi vật thể đa dạng và phong phú: là nguồn ca dao, ngạn ngữ, huyền thoại, truyện cổ tích, truyện cười, giai thoại, ..., là các lễ hội truyền thống lâu đời đặc sắc, là cái nôi của ca nhạc dân gian, trò diễn,... Có thể nói Bắc Bộ là mảnh đất màu mỡ cho văn hoá nghệ thuật của dân tộc Việt ươm chồi, nảy lộc. Trên đất nước Việt Nam, đất nước của ca dao, thần thoại, văn học dân gian Bắc Bộ là một trong những viên ngọc quý giá nhất, mang nhiều nét đặc trưng, đúng như GS Trần Quốc Vượng đã nhận xét: “Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý hiếm”. Ca dao, dân ca xứ Bắc không nhưng ngọt ngào, đằm thắm mà còn thấm thía ân tình. Xứ Bắc có một kho tàng đồ sộ những tích truyện, truyện cổ dân gian, truyền thuyết, truyện cười... với những hình ảnh ông bụt, cô Tấm, những chàng Sơn tinh, Thuỷ Tinh... đã đi vào tâm khảm người Việt hàng thế kỷ qua. Đặc biệt, Bắc Bộ có truyện thần thoại - thể loại văn học dân gian mà không vùng miền khác nào có được. Khác với các vùng khác, truyện Trạng của vùng thường thiên về nói chữ, chơi chữ, thể hiện trí tuệ vượt bậc của người xưa. Ở đây, các thể loại thuộc nghệ thuật sân khấu dân gian cũng khá đa dạng và mang sắc thái vùng đậm nét, bao gồm hát chèo, hát chầu văn, hát quan họ, múa rối,...

Vùng đồng bằng sông Hồng còn có những phong tục hết sức đặc biệt và đa dạng, đặc biệt là hệ thống những lễ hội và lễ tết. Do cuộc sống sản xuất nông nghiệp rất vả và có tính thời vụ cao cho nên vào những lúc nông nhàn người dân tự thưởng cho mình những ngày vui chơi, vì thế các ngày lễ tết, lễ hội diễn ra tương đối nhiều trong một năm. Trong một năm có nhiều ngày lễ tết gồm những ngày lễ cúng tổ tiên và những khoảng trống theo lịch thời vụ như: tết nguyên tiêu (rằm tháng riêng), tết hàn thực (3/3 âm lịch), tết đoan ngọ ( 5/5 âm lịch ), tết ông công, ông táo (23 tháng chạp) ... nhưng quan trọng nhất là tết Nguyên Đán. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tinh thần của người Việt. Ngày này có sự sum họp của gia đình, gia tiên, gia thần. Con cháu dù đi làm ăn ở đâu ngày tết cũng cố gắng về ăn tết cùng gia đình. Hương hồn ông bà tổ tiên các thế hệ cũng về gặp mặt, các thần chăm lo đến gia đình cũng được chăm lo cúng bái. Ngoài lễ tết ra thì một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần là lễ hội. Vùng đồng bằng bắc bộ là vùng có nhiều ngày hội đặc sắc giàu truyền thống nhất cả nước.

➢ Tín ngưỡng: Lý giải về tín ngưỡng, trong cuốn “Hán - Việt từ điển”, Giáo sư Đào Duy Anh đã viết: Tín ngưỡng là “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”.Có thể nói tín ngưỡng là một nhân tố văn hoá không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Nếu nhìn trên lát cắt đồng đại của tiến trình lịch sử, “tín ngưỡng” đã lắng đọng ở đây những nét văn hóa.

chầu, truyện thơ Nôm, các bài giáng bút, câu đối, đại tự, hát xướng, hát chầu văn, lên đồng, múa bóng... Những thần ngưỡng của tín ngưỡng thờ Mẫu gồm các nhiên thần, nhân thần, trong đó có khá nhiều các nhân vật lịch sử anh hùng như Trần Hưng Đạo (Vị vua cha). Nhân vật của tín ngưỡng thờ Mẫu được thờ trong những điện, đền, phủ... mà những di tích nàynằm rải rác rất nhiều ở vùng văn hoá Bắc Bộ.

Tín ngưỡng thờ cụ tổ nghề. Ngoài ngành kinh tế nông nghiệp thuần nông thì các ngành nghề thù công rất phổ biến ở các làng trong vùng văn hoá Bắc Bộ. Những làng quê đó dần được phát triển thành những làng nghề chuyên nghiệp. Do đó, việc thờ các ông tổ nghề (dệt, gốm, đúc đồng...) là nét không thể thiếu trong văn hoá tín ngưỡng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ.

2.2. Lễ hội Khi nói đến tín ngưỡng thì không thể không nhắc đến lễ hội, bởi lễ hội chính là phương thức thể hiện, giao lưu tín ngưỡng của người dân. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hoá lớn, nó bao chứa các hình thức tín ngưỡng khác, hay nói cách khác là những hình thức này tiềmẩn, tồn tại trong lễ hội.

Như đã nói ở trên, đặc trưng của cư dân vùng văn hoá Bắc Bộ là sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước. Vòng quay tự nhiên tạo ra tính chất mùa vụ và hình thức lễ hội ra đời trong thời gian đó. Ban đầu, nó đơn thuần chỉ là hính thức văn hoá giải trí. Dần dà, qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, nó lắng đọng lại và trở thành văn hoá tín ngưỡng ở đồng bằng Bắc Bộ, lễ hội rất phong phú, đa dạng, rực rỡ về thời gian, số lượng, mật độ, nội dung... Theo thời gian, có thể chia lễ hội làm nhiều loại: Lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu... Theo không gian địa lý, lễ hội được phân làm những dạng: Lễ làng, lễ hội vùng, lễ hội cả nước... Tuy vậy, dù vào thời gian nào hay ở địa phương nào, lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ đều có đặc điểm chung là mang tính chất lễ hội nông nghiệp. Điều này thể hiện rõ trong các hình thức lế hội như thờ mẹ lúa, thờ thần mặt trời, cầu mưa...

Lễ hội ở vùng văn hoá Bắc Bộ không chỉ là những nét phác thảo về văn hoá mà còn mang đậm tính chất tín ngưỡng tôn giáo. Những lễ hội thường được đồng nhất với lễ chùa chiền, miếu mạo. Nếu xét trong phạm vi hẹp nhất định có thể thấy nhiều lễ hội truyền thống: Hội chùa Hương (Hà Tây), hội Đền Hùng (Phú Thọ), hội Gióng (Hà Tây), hội lim. (Bắc Ninh)... những lễ hội ấy là kết quả củanhững tinh hoa văn hoá dân tộc được kế thừa, chọn lọc, kết tinh và lắng đọng qua cácthời kỳ lịch sử, là kết quả của quá trình tiếp diễn văn hoá mà đã được đánh giá là “diễn ralâu dài và nội dung phong phú hơn cả” (Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận “Các vùng văn hoá Việt Nam - Nxb văn học). Theo GS Đinh Gia Khánh, “Đây là một sinh hoạt tập thể long trọng thường đem lại niềm phấn chấn cho tất cả mọi người, cho mỗi một con người. Nhưng quy cách và những nghi thức trong lễ hội mà mỗi người phải tuân thủ theo tạo nên niềm thông cảm của toàn thể cộng đồng, làm cho mỗi người gắn bó chặt chẽ hơn vớicộng đồng và do đó, thấy mình vươn lên ở những tầm vóc cao hơn với một sức mạnh lớnhơn” (Trên đường tìm hiểu văn hoá Việt Nam - Nxb KHXH-Hà Nội).

Sau đây là một số lễ hội nổi tiếng tại cùng đồng bằng sông Hồng. Các lễ hội chủ yếu diễn ra vào tháng Giêng, khoảng thời gian đón chào năm mới và là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội nhất trong năm

  • Lễ hội “Trâu rơm, bò rạ” ngày 4/1 ở Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) Hằng năm, cứ vào ngày mùng 4 và mùng 5 Tết Nguyên đán, khi hai làng Bích Đại và Đồng Vệ vào đám, nhân dân Đại Đồng lại háo hức đón chờ trò trình diễn trâu rơm, bò rạ. Tương truyền, sau khi dẹp xong giặc Ân, Đinh Thiên Tích đem quân về làng Bích Đại mổ trâu ăn mừng. Đáp lại mong muốn của dân làng "làm cho làng mỗi ngày một thêm đông người, nhiều của", vị tướng giỏi của vua Hùng đã bày ra phép rước cầu, mọi người mặc áo xanh, đỏ vác cày và bện trâu bằng rơm, nam đóng giả nữ, nữ đóng giả nam đem theo những mủng trấu để tung khắp cánh đồng, tượng trưng cho ngày hội toàn dân xuống đồng.

Theo lời kể của các cụ già trong làng, vào ngày mùng 4 và mùng 5 Tết Nguyên đán, mỗi nhà có trâu và "sạch bụi" không có tang đều phải "sắm" một con trâu, bò bằng rơm, rạ đem ra sân đình làm lễ. Rơm rạ đã được chuẩn bị từ mùa gặt năm trước và bện thành trâu, bò vào dịp cuối năm. Trâu rơm, bò rạ này được buộc theo một cái cày đã tháo lưỡi; một người đàn ông đóng vai trâu, bò, một người đàn ông khác cầm cày. Với mục đích là trình bày, giới thiệu về nghề canh nông - một nghề chính và lâu đời của làng, trò trình diễn trâu rơm bò rạ thể hiện nguyện vọng của người dân Đại Đồng: cầu mong sự bảo trợ, phù hộ của thần linh, thành hoàng để cây cối tốt tươi, gia súc, gia cầm không ngừng sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu. Khi tiếng trống, chiêng vang lên, những con trâu do người dân hóa thân đi cày, còn các chàng trai giả gái tung trấu, gieo mạ.

Không chỉ trình diễn trâu rơm bò rạ, vào ngày hội làng, hai làng Bích Đại và Đồng Vệ còn có trò trình tứ dân chi nghệp với các vai: nông dân, thầy đồ và học trò, thợ mộc, lái buôn tượng trưng cho bốn tầng lớp trong xã hội: sĩ, nông, công, thương cùng nhiều lễ rước như rước kiệu, rước kén tằm, tục rước "ông bô" và cướp con... Chính vì vậy, ngày hội làng thường thu hút rất đông khách thập phương đến dự.

  • Hội gò Đống Đa ngày 5/1 ở Hà Nội Hội gò Đống Đa diễn ra hàng năm vào ngày mùng 5 Tết tại gò Đống Đa, phường Quang Trung, quận Đống Đa, Hà Nội.

Đây là lễ hội chiến thắng, được tổ chức để tưởng nhớ tới công tích lẫy lừng của vua Quang Trung - người anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trong ngày hội có nhiều trò chơi vui khoẻ, thể hiện rõ tinh thần thượng võ. Trong đó, trò rước Rồng lửa Thăng Long là độc đáo nhất.

  • Lễ hội chùa Hương ngày 6/1 ở Mỹ Đức (Hà Nội) Chùa Hương nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Đây là lễ hội thu hút sự chú ý nhiều nhất của nhân dân cả nước mỗi dịp Tết đến xuân về và cũng là lễ hội dài nhất cả nước. Lễ hội Chùa Hương bắt đầu từ mùng 6 tháng Giêng đến hết tháng 3 âm lịch. Tuy nhiên, không đợi đến ngày khai hội, vào ngày mùng 2 Tết Âm lịch rất nhiều người dân tứ phương đến trẩy hội từ sớm.

quán gắn liền với khu di tích đặc biệt quan trọng này, nhằm góp phần gìn giữ di sản văn hóa của cha ông ta để lại cho các thế hệ.

Lễ hội chùa Côn Sơn còn là dịp tôn vinh các bậc tiền nhân có công xây dựng Thiền phái Trúc Lâm, xây dựng đất nước, chống giặc ngoại xâm... Với đạo lý uống nước nhớ nguồn, lễ hội được cộng đồng tổ chức mang tính chất như cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, giúp thế hệ trẻ bồi đắp thêm lòng tự hào về truyền thống quê hương, đất nước. Đặc biệt, lễ hội đã gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu trong đời sống cộng đồng.

  • Lễ hội Lim ngày 13/1 ở Bắc Ninh Đây là lễ hội lớn của tỉnh Bắc Ninh, chính hội được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du. Hội Lim được coi là nét kết tinh độc đáo của vùng văn hoá Kinh Bắc.

Hội Lim là một sinh hoạt văn hóa đặc sắc với dân ca quan họ nổi tiếng. Các làng quan họ xung quanh mang liền anh, liền chị tới hát giao duyên, hát đối đáp, thi hát với nhau ở trên bề, dưới bến. Ngoài ra, có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm.

  • Lễ hội đền Trần ngày 12/1 ở Nam Định Lễ hội ở đền Trần hay còn gọi là lễ Khai ấn đền Trần thường diễn ra 6 ngày, từ 15 đến 20 tháng Giêng âm lịch hàng năm. "Khai ấn" là mở đầu ngày làm việc của một năm mới. Đến nay, nghi thức khai ấn vẫn được giữ nguyên với những lễ nghi truyền thống, thu hút hàng vạn người từ khắp mọi miền Tổ quốc về tham quan, xin ấn mỗi năm với mong muốn một năm mới thành đạt và phát tài.

Lễ hội được cử hành trang nghiêm. Nghi lễ được diễn ra với các lễ rước từ các đình, đền xung quanh về dâng hương, tế tự ở đền Thượng thờ 14 vị vua Trần. Lễ dâng hương có 14 cô gái đồng trinh, đội 14 mâm hoa đi vào đền trong tiếng nhạc lễ dâng lên 14 ngai vua. Nghi lễ này là hồi ảnh của cung cách triều đình phong kiến xa xưa.

Phần hội có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá phong phú, độc đáo như chọi gà, diễn võ năm thế hệ, đấu vật, múa lân, chơi cờ thẻ, đi cầu kiều, hát văn, múa bài bông. Chính những nét sinh hoạt văn hoá độc đáo này đã tạo cho hội Đền Trần sức hấp dẫn và cuốn hút du khách thập phương.

  • Hội chùa Keo ngày 14/1 ở Thái Bình Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Chùa là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Việt Nam. Gác chuông chùa Keo là một công trình nghệ thuật bằng gỗ độc đáo.

Từ thành phố Nam Định, qua cầu Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10km là đến chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng, chùa Keo với gác chuông như một hoa sen vươn lên giữa màu xanh bát ngàn của quê lúa Thái Bình.

Chùa thờ Không Lộ, có công chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông, được phong làm Quốc Sư. Ngoài lễ Phật còn có các trò chơi bắt vịt, thi thổi cơm và ném pháo...

  • Lễ hội Bà chúa Kho ngày 14/1 tại Bắc Ninh Đây cũng là một lễ hội lớn tại miền Bắc, nhất là đối với giới kinh doanh, làm ăn buôn bán. Cuối năm trả nợ, đầu năm đi vay bà chúa Kho đã trở thành một phong tục tồn tại lâu đời tại Việt Nam.

Đền bà chúa Kho nằm tại làng Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Ngày khai hội vào 14/1 âm lịch. Lễ hội có tục dâng hương, khấn vay tiền Bà Chúa (tượng trưng) "cầu tài phát lộc".

Theo truyền thuyết, Bà Chúa Kho là người phụ nữ chịu khó, sau khi lấy vua nhà Lý, bà xin vua cho về vùng Vũ Ninh chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang, tổ chức sản xuất ở 72 trang ấp. Bà còn trông nom kho lương thực, bảo quản tốt quân lương trong và sau chiến thắng quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) năm 1076. Khi Bà qua đời, mộ của bà được đưa về thôn Quả Cảm (xã Hòa Long, TP Bắc Ninh) nơi bà sinh ra.

Còn ở các trang ấp đều có đền thờ. Tại xã Cổ Mễ, nhân dân làm đền thờ bà Chúa tại núi Kho, nên còn có tên là đền thờ bà Chúa Kho.

  • Hội Chùa Thầy ngày 5/3 ở Quốc Oai (Hà Nội) Chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc.

Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày 5 đến 7-3 âm lịch. Đến với chùa Thầy, du khách được chiêm ngưỡng phong cảnh non nước hữu tình, thưởng thức các màn rối nước đặc sắc - một môn nghệ thuật truyền thống mà tổ sư của nghề không ai khác chính là Từ Đạo Hạnh truyền lại.

  • Hội đền Hùng ngày 10/3 ở Phú Thọ Đền Hùng nằm ở trên núi Nghĩa Lĩnh, Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ là nơi hàng năm thường diễn ra lễ hội mang tính chất quốc gia để suy tôn các vua Hùng là người đã có công dựng nước.

Lễ hội diễn ra từ ngày 01đến hết ngày 10 tháng 3 âm lịch. Việc tế lễ được tổ chức rất trọng thể vào ngày chính hội (10/3), bắt đầu bằng lễ dâng hương có đại diện của Nhà nước, tại đền Thượng là nơi xưa kia vua Hùng tế trời đất. Ðồ tế lễ ngoài mâm ngũ quả còn có bánh chưng, bánh dày để nhắc lại sự tích Lang Liêu, cũng là nhắc nhở công đức các vua Hùng đã dạy dân trồng lúa.

Phần rước, có nhiều cuộc rước thần, rước voi, rước kiệu... của các làng Tiên Cương, Hy Cương, Phượng Giao, Cổ Tích...

Sau tế lễ còn có múa hát xoan (ở đền Thượng), hát ca trù (ở đền Hạ) và nhiều trò chơi khác.

Hội đền Hùng không chỉ thu hút khách thập phương đến dự lễ bởi những nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc mà còn ở tính thiêng liêng của một cuộc hành hương trở về cội

  • Phong tục, tập quán góp phần phát triẻn thị trường du lịch
  • Phong tục, tập quán góp phần phát triển các tài nguyên du lịch
  • Phong tục, tập quán góp phần phát triển các dịch vụ du lịch thích hợp
  • Phong tục, tập quán góp phần phát triển các hình thức hoạt động hay sản phẩm du lịch đặc thù
  • Phong tục, tập quán góp phần quyết định các thương hiệu, hình ảnh du lịch
  • Phong tục, tập quán góp phần thể hiện bản sắc văn hóa Việt hoặc bản sắc riêng của địa phương đó trong du lịch
  • Phong tục, tập quán góp phần thể hiện chất lượng văn hóa trong du lịch
  • Phong tục, tập quán góp phần phát triển các điểm, truyến du lịch
  • Phong tục, tập quán góp phần vào việc quy hoạch phát triển du lịch.... Ngoài những vấn đề nêu trên, chỉ tính riêng các hình thức du lịch chịu chi phối của phong tục, tập quán, chúng ta có thể thấy được vai trò to lớn của nó trong việc tạo nên những sản phẩm du lịch đặc thù như du lịch trải nghiệm tập quán lao động sản xuất, nông nghiệp, nông thôn, công nghệ, thủ công nghiệp,...; du lịch khám sát các tập quán tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân địa phương; du lịch khảo sát phong tục, lối sống của các dân tộc, sắc tộc,...; hay những phong tục, tập quán trong các hình thức và sản phẩm du lịch khác như ẩm thực, trang phục, du lịch trải nghiệm văn hóa tiêu dùng,..ủa cư dân, dân tộc của vùng miền đấy. Đó chính là sức hấp dẫn du lịch của những sản phẩm du lịch mà du khách lựa chọn, văn hóa mà du khách muốn khám phá và tìm hiểu.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần chú ý tới sự tác động của du lịch đến phong tục, tập quán, cách phát huy những tác động tích cực của hoạt động du lịch trong việc đa dạng hóa văn hóa, hiệu quả kinh tế, hiệu quả giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế,..., giúp bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp. Nhưng cũng không thể quên những tác động tiêu cực của du lịch khiến cho phong tục, tập quán bị biến dạng, bị mai một bởi sự hiện địa hóa văn hóa truyền thống, biểu hiện mê tín dị đoan, hồi phục hủ tục, xâm hại thuần phong mỹ tục, ô nhiễm môi trường văn hóa,...

Do vậy, ngoài việc khai thác phong tục, tập quán để phục vụ du lịch thì vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa về phong tục, tập quán truyền thống trong hoạt động du lịch là một nhiệm vụ của ngành du lịch, cũng như chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Cần tập trung ưu tiên việc bảo tồn các phong tục, tập quán tốt đẹp, có giá trị nhân văn cao, cũng như hạn chế tác động tiêu cực của những tập tục lạc hậu, những hủ tục mê tín dị đoan, làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền con người.

  1. Đối với lễ hội Lễ hội có vai trò quan trọng trong nền văn hóa, là điểm nhấn văn hóa của các dân tộc. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp nhất, những nét sinh hoạt văn hóa sống động và nhiều vẻ nhất đều được thể hiện trong lễ hội.

Thời gian của lễ hội không diễn ra quanh năm mà chỉ tập trung trong thời gian ngắn. Có lễ hội được tiến hành trong khoảng một hai tháng nhưng cũng có lễ hội diến ra trong một vài ngày. Về quy mô lễ hội, các lễ hội có quy mô lớn nhỏ khác nhau, có lễ hội diến ra trên địa bàn rộng, thậm chí là quy mô quốc tế. Ngược lại, có lễ hội chỉ bó hẹp trong một địa phương nhỏ hẹp. Điều này ảnh hưởng rõ ràng đến hoạt động du lịch và nhất là khả năng thu hút khách du lịch. Địa điểm tổ chức lễ hội thường là tại những di tích lịch sử văn hóa. Di tích và lễ hội là hai loại hình tài nguyên du lịch nhân văn luôn sóng đôi và đan xen lẫn nhau.

Nhìn một cách trực quan thì lễ hội và du lịch có một điểm chung là do con người tạo nên vì con người, đều phải dựa vào đám đông và đáp ứng được nhu cầu của đám đông đó để hoạt động và phát triển.

Lễ hội thu hút khách du lịch và hoạt động du lịch thúc đẩy cộng đồng bảo tồn và phát triển lễ hội. Có thể nói, bất cứ thành viên nào cũng từng tham dự ít nhất một lần lễ hội. Lễ hội thấm sâu và lan tỏa rộng ra khắp nơi, tác động lên các hoạt động của con người, thông qua lễ hội, người ta có thể biết được văn hóa của một dân tộc, một vùng miền, xứ sở. Hơn nữa, lễ hội thường gắn với các di tích lịch sử văn hóa như những điểm đến du lịch với cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và hệ thống dịch vụ, tiêu biểu như đồng bằng sông Hồng nên thu hút nhiều khách đến với địa phương. Lễ hội có vai trò to lớn trong quá trình phát triển du lịch, được thể hiện qua những vấn đề sau:

  • Lễ hội góp phần phát triển thị trường du lịch
  • Lễ hội góp phần phát triển, đa dạng hóa tài nguyên du lịch
  • Lễ hội góp phần phát triển các dịch vụ du lịch thích hợp
  • Lễ hội góp phần tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù
  • Lễ hội góp phần phát triển các thương hiệu, hình ảnh du lịch
  • Lễ hội góp phần thể hiện và phát huy bản sắc dân tộc Việt và văn hóa riêng của từng địa phương
  • Lễ hội góp phần phát triển các điểm, tuyến du lịch
  • Lễ hội góp phần vào quy hoạch phát triển du lịch... Có thể khẳng định rằng: Du lịch có mối quan hệ mật thiết với lễ hội. Lễ hội tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch, là một loại tài nguyên du lịch văn hóa, lễ hội đã tạo ra sự gắn kết giữa cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan nhân văn, thống nhất trong hệ thống văn hóa hoàn chỉnh nên có sức hấp dẫn du lịch lâu dài và bền vững.

Trong điều luật 79 của luật du lịch Việt Nam đã xác định rõ, Nhà nước tổ chức hoạt động hướng dẫn du lịch xúc tiến du lịch với các nội dung tuyên truyền giao tiếp rộng rãi về đất nước, con người Việt Nam, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,... Do đó, lễ hội sẽ làm cho du lịch phát triển hơn, lễ hội làm cho du lịch trở nên hấp dẫn tạo cho số lượng khách đông hơn. Du khách đến lễ hội đông kéo theo những nhu cầu khác nhau, khi đó những mặt hàng ngành du lịch tăng lên.

Phong tục và tập quán có gì khác nhau?

Theo từ điển tiếng việt giải thích rằng “Phong tục là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”; “Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, được mọi người công nhận và làm theo.” Theo giáo sư Nguyễn Phạm Hùng trong cuốn Văn hóa ...

Phong tục tập quán truyền thống là gì?

Phong tục tập quán có thể hiểu là những thói quen hay chuẩn mực trong cuộc sống hằng ngày và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống nên các phong tục tập quán Việt Nam cũng vì thế mà đa dạng không kém.

Việt Nam có những phong tục tập quán gì?

2.1 Tết Nguyên Đán – Phong tục tập quán Việt Nam đặc trưng. ... .

2.2 Thờ mẫu Tam phủ, Tứ Phủ – Tôn giáo và tín ngưỡng. ... .

2.3 Tết Thanh minh – Lễ Tết. ... .

2.4 Tết Trung thu – Lễ Tết. ... .

2.5 Tục ăn trầu – Giao thiệp. ... .

2.6 Lễ hội cầu an bản Mường – Lễ hội Việt Nam. ... .

2.7 Lễ hội Đền Hùng – Lễ hội Việt Nam. ... .

2.8 “Củi hứa hôn” của người Giẻ Triêng..

Khi nào áp dụng tập quán pháp?

Khi nào tập quán trở thành pháp luật? Tập quán trở thành pháp luật khi được Nhà nước thừa nhận và nâng lên làm pháp luật. Và đây được gọi là tập quán pháp. Khi Nhà nước thừa nhận một tập quán và đưa tập quán đó trở thành pháp luật có ý nghĩa thể hiện sự chấp thuận của nhà nước với thói quen ứng xử của cộng đồng.