Tiểu thuyết văn học đầu tiên của việt nam năm 2024

Cho đến gần đ�y, phần đ�ng giới l�m văn học vẫn c�n cho Tố T�m của Ho�ng Ngọc Ph�ch l� cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu ti�n của Việt Nam. Sai lầm n�y ph�t xuất từ những nh� nghi�n cứu văn học thời trước, phần lớn gốc Bắc, từ Dương Quảng H�m, đến Vũ Ngọc Phan, Ho�i Thanh... khi nghi�n cứu văn học thế kỷ XX, đ� qu� nghi�ng về miền Bắc, m� kh�ng ch� trọng đến miền Nam, nơi khởi thủy của nền văn học quốc ngữ.

Ng�y nay, nhiều c�ng tr�nh nghi�n cứu, đặc biệt của Nguyễn Văn Trung trong Lục ch�u học, bản đ�nh m�y, lưu h�nh từ năm 1988, đ� đặt lại vai tr� chủ yếu của v�ng Lục Ch�u, tức Nam Kỳ Lục Tỉnh trong sự khai ph� v� ph�t triển nền văn học quốc ngữ:

Miền Nam l� nơi ph�t xuất những cuốn từ điển đầu ti�n của Trương Vĩnh K�, Huỳnh Tịnh Của; miền Nam l� nơi ph�t xuất tiểu thuyết quốc ngữ đầu ti�n Th�y Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, viết năm 1887; miền Nam cũng l� nơi m� những tờ b�o quốc ngữ đầu ti�n ra đời, như Gia Định B�o, 1882; Nam Kỳ Nhật Tr�nh, 1897; N�ng Cổ M�n Đ�m, 1901; Lục Tỉnh T�n Văn, 1907.

V� h�m nay, ch�ng t�i muốn chứng minh rằng cũng tại miền Nam, đ� xuất hiện tiểu thuyết gia hiện đại đầu ti�n của văn học Việt Nam: nh� văn Hồ Biểu Ch�nh.

Hồ Biểu Ch�nh, t�n thật l� Hồ Văn Trung, tự Biểu Ch�nh, sinh năm 1885 tại G� C�ng v� mất năm 1958 tại S�i g�n. Trong hơn nửa thế kỷ s�ng t�c, �ng đ� để lại 64 cuốn tiểu thuyết, 23 cuốn s�ch nghi�n cứu văn học, 13 tuồng h�t, 7 đoản thi�n, 3 truyện ngắn, 2 truyện dịch, 2 t�c phẩm văn vần, 5 tập tuỳ b�t ph� b�nh, 6 k� ức v� 8 b�i diễn văn. Một di sản văn h�a đồ sộ như thế m� cho đến nay, dường như chưa c� một c�ng tr�nh nghi�n cứu n�o thực sự đi s�u v�o to�n bộ di sản m� văn h�o để lại v� ch�nh văn chương của Hồ Biểu Ch�nh cũng c�n xa lạ với số đ�ng người đọc trong nước, nhất l� độc giả miền Bắc.

Để giới thiệu t�c giả, kh�ng g� bằng ch�nh lời t�c giả. Trong tập k� ức, viết ng�y 24/12/1957, tại Ph� Nhuận, bản đ�nh m�y, nhan đề � Đời của t�i về văn nghệ�, Hồ Biểu Ch�nh đ� viết về �l�c thiếu ni�n� của m�nh như sau:

� Sanh ng�y 1 th�ng 10 dương lịch năm 1885 tại l�ng B�nh Th�nh, tỉnh G� C�ng, trong một gia đ�nh ngh�o, nhưng nội tổ hồi trước đứng lập l�ng n�n c� bản vị Tiền hiền thờ trong đ�nh Thần v� th�n phụ được tham dự trong ban Hội Tề Hương Ch�nh, lần l�n tới chức Hương Chủ v� Ch�nh B�i.

Từ 8 đến 12 tuổi, học nhấp nhem chữ Nho với thầy gi�o dậy trong l�ng. Đến 13 tuổi, nhờ cha mẹ dời về ở chợ Gi�ng �ng Hu�, mới bắt đầu học Quốc ngữ v� chữ Ph�p tại trường tổng Vĩnh Lợi, rồi xuống trường tỉnh G� C�ng học tiếp 3 năm thi đậu học bổng. Được v�o trường trung học Mỹ Tho học 2 năm (1902 v� 1903) rồi được l�n trường trung học Chasseloup-Laubat ở S�ig�n học th�m 2 năm nữa. Cuối năm 1905 thi đậu bằng Th�nh Chung gọi l� Diplome de fin d�Etudes�.

Vẫn giọng văn ấy, Hồ Biểu Ch�nh kể tiếp về cuộc đời c�ng chức, quan trường của m�nh: cuối năm 1921, thi đậu Tri huyện. 1927 thăng Tri phủ. 1936 l�m Đốc Phủ sứ. 1941 l�m Nghị vi�n th�nh phố S�ig�n. Năm 1946 l�m cố vấn cho b�c sĩ Nguyễn Văn Thinh lập ch�nh phủ Nam Kỳ tự trị ... Tất cả mọi việc xẩy ra qua giọng tự thuật thung dung v� b�nh thản, về đời quan cũng như đời văn. Nhưng đ�ng ch� � nhất l� đoạn n�i đến động cơ th�c đẩy �ng bước v�o nghiệp cầm b�t:

�Năm 1906 ra khỏi nh� trường, nhận thấy c�c ấn qu�n ở S�ig�n mướn người dịch truyện T�u v� thơ chữ N�m ra chữ Quốc ngữ đặng in m� b�n. Từ th�nh thị ra th�n qu�, nhơn d�n đua nhau m� đọc. C� v�i tờ tuần b�o cũng được người ta ch� �.

Thầm nghĩ, người m�nh m� biết chuyện b�n T�u kh�ng bổ �ch cho bằng biết truyện trong nước m�nh. T�nh viết chuyện văn vắn cho đăng v�o mấy tờ tuần b�o để đồng b�o đọc thử. Viết kh� khăn hết sức, v� thiếu nho học n�n kh�ng t�m ra lời m� tả tr� � cho người ta th�ng cảm được. Phải học chữ Nho. Tr�t ba năm, nhờ v�i �ng bạn lớn tuổi ban đ�m l�m ơn dạy gi�m cho đọc được s�ch T�u.

Năm 1910, lựa những chuyện hay trong T�nh Sử v� Kim Cổ Kỳ Quan dịch ra Quốc văn nhan đề �T�n soạn cổ t�ch� đặng tập viết cho su�ng. Cũng viết theo thể văn �Thượng lục hạ b�t� th�nh một chuyện d�i nhan đề �U t�nh lục�, chuyện t�nh của người trong nước m�nh. Hai quyển nầy được mấy bạn h�n tiền in thử th� kh�ng ai ch�.

L�c đ� cụ Trần Ch�nh Chiếu cho xuất bản quyển �Ho�ng Tố Oanh h�m oan� l� tiểu thuyết đầu ti�n trong Lục tỉnh, truyện t�nh tả nhơn vật trong xứ v� viết theo điệu văn xu�i. Đọc quyển nầy, cảm thấy viết truyện d�ng văn xu�i dễ cảm ho� người đọc hơn, bởi vậy năm 1912, đổi xuống l�m việc tại C� Mau mới viết thử quyển �Ai l�m được � l� quyển thứ nhứt viết văn xu�i tại C� Mau với nhơn vật cũng ở C� Mau�.

Như vậy, Hồ Biểu Ch�nh đ� tập viết văn từ năm 1906, bước v�o nghiệp văn từ năm 1910, v� động cơ ch�nh th�c đẩy �ng viết l� v� �ng muốn cho �người m�nh đọc chuyện xẩy ra ở nước m�nh bằng chữ nước m�nh� v� chọn văn xu�i v� thấy �văn xu�i dễ cảm ho� người đọc hơn văn vần�. Cho n�n, hai yếu tố d�n tộc v� b�nh d�n l� những yếu tố cơ bản x�y dựng n�n tiểu thuyết của Hồ Biểu Ch�nh. V� cũng ch�nh với hai yếu tố n�y, �ng đ� �đ�nh đổ� được lối viết tiểu thuyết chương hồi theo lối T�u đang thịnh h�nh v� �ng đ� �đ�nh bại� được lối văn biền ngẫu, r�o rắt, vế đối vế, vần đối vần, trong những truyện quốc ngữ thời ấy.

Để thấy r� c�i mới trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Ch�nh, chỉ cần so s�nh văn phong của �ng với văn phong những người c�ng thời :

Nguyễn Ch�nh Sắt, trong tiểu thuyết Nghi� hiệp kỳ duy�n, tức Chăng C� Mun, in năm 1919, viết :

�Lần hồi ng�y lụn th�ng qua, b�ng thiều quang đưa rất lẹ; thoắt ch�t m� Phi Đ�ng đ� 18 tuổi đầu, h�nh dung yểu điệu, cốt c�ch phương phi, b� mị thi�n kiều, ngư trầm lạc nhạn. M� ba mươi đời c�i kiếp hồng nhan bạc mạng l� lẽ tự nhi�n �. (tr�ch Nghi� hiệp kỳ duy�n, Long An t�i bản, trang 10).

Ho�ng Ngọc Ph�ch, trong tiểu thuyết Tố T�m, viết 1922, in 1925, viết :

� Th�i, h�m nay l� ng�y từ biệt của ng�i b�t chung t�nh n�y, từ đ�y sẽ vắng tanh tin nhạn, bao nhi�u chuyện t�nh xưa nghi� cũ, sẽ theo m�y bay gi� thổi m� mơ m�ng như giấc chi�m bao. Những khi canh t� giăng xế, khi mưa sa trước cửa, khi gi� thổi b�n m�n, khi em soi gương thấy b�ng... � (Tố T�m, Đại Nam in lại ở Mỹ, trang 79).

Nhất Linh, trong tiểu thuyết Nho Phong, in 1926, cũng kh�ng tho�t được lối văn cổ: �L� Nương năm ấy tuổi mới trăng tr�n� hoặc �Nhưng b�ng hoa thấp tho�ng, d�ng liễu thanh t�n, l�m cho ch�ng cũng phải nhiều phen man m�c trong l�ng� (tr�ch theo Vũ Ngọc Phan, Nh� văn hiện đại, Đại Nam in lại, trang 900).

T�n D�n Tử, trong tiểu thuyết Gia Long Tẩu Quốc, in năm 1929, viết :

� Đức Nguyễn �nh lạc bước phong trần.

Nơi Phật tự gặp người ph� t�.

Đất Việt Ba Kỳ, trời Nam một g�c, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chi�m bao; sự t�ch ng�y xưa, gương trị loạn c�n ghi lịch sử� (Gia Long tẩu quốc, Bảo Tồn t�i bản lần thứ 6, năm 1950, trang 1).

Văn tiểu thuyết đầu thế kỷ XX của ch�ng ta phần đ�ng l� như thế, trừ một v�i trường hợp như Phạm Duy Tốn trong Sống chết mặc bay (1918) v� Nguyễn Trọng Thuật trong Quả dưa đỏ (1925, tiểu thuyết ph�ng t�c theo truyện An Ti�m trong Lĩnh Nam tr�ch qu�i), tương đối tho�t khỏi lối viết biền ngẫu, hu� dạng, kể tr�n. Nhưng về truyện ngắn th� Trương Vĩnh K� đ� đi trước Phạm Duy Tốn; v� Nguyễn Trọng Thuật viết truyện thần kỳ, chưa phải l� tiểu thuyết hiện đại theo đ�ng nghĩa hư cấu của n�.

T�m lại, trong bối cảnh văn tiểu thuyết từ Bắc xuống Nam đều viết một giọng như thế, th� Hồ Biểu Ch�nh viết như thế n�o?

Trong Ai l�m được, t�c phẩm đầu ti�n viết năm 1912 (in năm 1922 tại S�i g�n), Hồ Biểu Ch�nh viết:

� Khiếu Nh�n bước v�o k�o ghế m� ngồi, ng� quanh quất kh�ng thấy kh�ch ăn uống, duy c� một người trai trạc chừng mười bẩy, mười t�m tuổi, đương ngồi tại b�n gần cửa m� viết. �ng thấy người miệng rộng, m�i d�y, vai ngang, tr�n trợt, t�c hớt cụt, mắt rạng ngời, tư c�ch nghi�m trang, mặt m�y s�ng rỡ, tuy y phục tầm thường m� h�nh dung kh�ng phải như người thường, bởi vậy �ng cứ ngồi ng� ho�i�. (tr�ch Ai l�m được, nxb Tổng hợp Tiền Giang, t�i bản 1988, trang 3).

V� trong �Cay đắng m�i đời� cảm t�c từ cốt truyện Sans Famille (V� gia đ�nh) của Hector Malot, in tại S�ig�n năm 1923, Hồ Biểu Ch�nh v�o truyện như sau :

�Ai đi đường Chợ Lớn xuống G� C�ng, hễ qua đ� Bao Ngược rồi l�n xe chạy ra khỏi chợ Mỹ Lợi, tới kh�c quanh, th� sẽ thấy b�n ph�a tay tr�i, c�ch lộ chừng �t trăm thước, c� một x�m đ�ng, k�u l� X�m Tre, nh� ở chật, c�i trở cửa l�n, c�i day cửa xuống, tre xanh kịt bao tr�m k�n m�t, ngo�i vu�ng tre th� ruộng bằng trang sấp liền từ gi�y. Qua m�a mưa c�y đượm m�u, ruộng nổi nước, th� tr�ng ra chẳng kh�c n�o c� lao nằm giữa s�ng lớn (...)

Dưới s�ng Bao Ngược ghe ch�i chở l�a trương buồm rồi thả tr�i theo d�ng nước, chiếc n�o chở cũng khẳm lừ. Tr�n lộ C�y Dương xe ngựa đưa người n�c n�ch chạy chậm x�, tiếng lục lạc nhỏ khua xa xa nghe như tiếng nh�i.� (Tr�ch Cay đắng m�i đời, nxb Văn nghệ TP HCM 1997, trang 5-6).

Chẳng cần biết g� về kh�i niệm hiện đại, chỉ cần đọc những d�ng văn của Hồ Biểu Ch�nh, v� đem so s�nh với văn phong của những người c�ng thời, tr�n đ�y, l� cũng thấy ngay c�i mới, c�i t�o bạo của �ng l�c bấy giờ. V� lại c�ng hiểu r� tại sao những truyện của Nguyễn Ch�nh Sắt, Ho�ng Ngọc Ph�ch, T�n D�n Tử... d� l� những t�c phẩm hay, đ� từng nổi tiếng một thời, nhưng ng�y nay đọc lại, ch�ng ta thấy ch�ng đ� cũ đi nhiều, trong khi truyện của Hồ Biểu Ch�nh, kh�ng một vết nhăn. Bởi những t�c phẩm của �ng c� t�nh hiện đại : nghi� l� kh�ng bị lỗi thời, v� n� gắn b� với cả hai yếu tố lịch đại (synchronique) v� đồng đại (diachronique). N�i c�ch kh�c, n� c� khả năng � vượt thời gian �, đọc l�c n�o cũng được, v� vừa mang t�nh chất của thời đại m� n� ra đời, vừa theo kịp c�c thời sau m� kh�ng bị sa thải.

Sở dĩ như vậy v� Hồ Biểu Ch�nh đi s�t với tiếng n�i hơn l� văn viết, v� khi cần viết văn, �ng viết giản dị m� kh�ng �l�m văn�. V� thế, văn �ng kh�ng phụ thuộc v�o c�i style, v�o c�i b�t ph�p thời thượng l�c bấy giờ m� sự r�o rắt, đối ngẫu, l�ng mạn, đang độ cao tr�o.

So s�nh như thế ch�ng ta mới hiểu th�i độ của những người như Thiếu Sơn, Tr�c H�, Đ�ng Hồ, đ� �loại� Hồ Biểu Ch�nh ra khỏi thế giới �văn chương� của những người đương thời. V� họ cho rằng Hồ Biểu Ch�nh �kh�ng c� văn�. Đ�ng Hồ ghi lại: �Đọc th� cũng đọc, th�ch th� cũng th�ch, duy ch�ng t�i cứ kh�ng chịu được lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của �ng� tuy ngay sau đ� Đ�ng Hồ cũng nhận l� �quan niệm của t�i sai lầm v� cảm quan của t�i lệch lạc�. Biết vậy, nhưng �ng kh�ng sửa được c�i �cảm quan� của m�nh, c�i cảm quan của những nh� văn ng�n kh�ng ưa lối văn bạch thoại, như �ng tự lấy m�nh v� Hồ Biểu Ch�nh l�m v� dụ.

V� sau c�ng l� nhận định sai lầm của nh� ph� b�nh Vũ Ngọc Phan khi �ng đ�nh đồng tiểu thuyết của Hồ Biểu Ch�nh với Tố T�m v� Nho Phong: � Quyển Nho Phong của Nguyễn Tường Tam chỉ đ�ng kể l� một truyện bằng chứng cho lối tiểu thuyết nước ta trong thời kỳ ph�i thai như quyển Tố T�m của Ho�ng Ngọc Ph�ch hay những tiểu thuyết của Hồ Biểu Ch�nh� (Nh� văn hiện đại, trang 901).

Sau n�y, nh� nghi�n cứu Huỳnh L�, với tấm l�ng của �ng đối với Hồ Biểu Ch�nh v� văn chương Nam Bộ, đ� c� lời khen: �Truyện Tiền bạc bạc tiền của �ng c� thể xếp ngang với những t�c phẩm c� gi� trị nhất của chủ nghi� hiện thực sau n�y�. Đ�ng l� một lời khen ngược : Kh�ng ai khen �ng tổ khai s�ng một ng�nh đ� l�m được như con ch�u sau n�y!

Những ph�t ng�n ấy v� t�nh hay hữu �, đ� đồng t�nh hạ thấp gi� trị những đ�ng g�p văn học của miền Lục Ch�u n�i chung v� của Hồ Biểu Ch�nh n�i ri�ng, do th�nh kiến, do sự thiếu cập nhật kiến thức văn học hoặc v� những l� do kh�c.

Nhưng kh�ng phải tất cả mọi người đều sai lầm, Hồ Hữu Tường, ngược lại, m� văn Hồ Biểu Ch�nh, �ng nhận rằng Hồ Biểu Ch�nh đ� cho �ng �nhập mộng rồi tỉnh mộng�.

Tại sao như thế? Tại v� Hồ Biểu Ch�nh l� người đầu ti�n đ� đưa yếu tố fiction, tức l� yếu tố hư cấu, v�o văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, một c�ch to�n diện v� th�nh c�ng.

Trước Hồ Biểu Ch�nh, tiểu thuyết của ch�ng ta thường viết truyện theo lối T�u: nghi� l� viết truyện lịch sử, hoặc viết lại những t�ch lấy trong lịch sử, thần thoại, hoặc dựa theo một chuyện đ� c� thật, rồi th�m thắt ch�t �t chi tiết v�o.

Nguyễn Trọng Quản được coi l� người sớm nhất, đ� đem tiểu thuyết viết theo lối T�y phương v�o Việt Nam, năm 1887, với truyện Th�y Lazaro Phiền. Nhưng truyện của Nguyễn Trọng Quản, cũng như truyện Tố T�m (1922) sau n�y của Ho�ng Ngọc Ph�ch, vẫn c�n viết theo lối k� th�c, tức l� t�c giả thuật một truyện ở ng�i thứ nhất, truyện của m�nh hay truyện do người kh�c kể lại, chứ kh�ng phải t�c giả hư cấu, t�c giả tưởng tượng ra.

Hồ Biểu Ch�nh l� người đầu ti�n đ� x�y dựng n�n to�n bộ hệ thống tiểu thuyết hư cấu, hiện thực trong tiếng Việt. �ng đ� tạo ra một thế giới nh�n vật tưởng tượng y như thật, trong đời sống, khiến Hồ Hữu Tường, thủa trẻ, khi đọc truyện của Hồ Biểu Ch�nh, đ� nhập v�o thế giới hư cấu ấy, m� �ng gọi l� �nhập mộng� v� khi đọc xong, �ng � tỉnh mộng �, bởi v� �ng ra khỏi thế giới hư cấu của tiểu thuyết. V� �ng viết về cuốn Tỉnh mộng của Hồ Biểu Ch�nh như sau:

�... Như vậy th� kh�ng thể n�o ở trong cảnh thực m� c�, chỉ ở trong mộng m� th�i. Nhưng t�c giả viết rất tự nhi�n, n�n đọc tiểu thuyết, t�i sống m�i ở trong một cảnh mộng. Đến chừng xem đầu đề tiểu thuyết, t�i thấy đầu đề đ� l� Tỉnh mộng. Tới chừng đ� t�i hay rằng c�u chuyện m� Hồ Biểu Ch�nh đ� thuật lại, đ� tạo cho t�i một cảnh mộng. T�i ở trong cảnh mộng. Rồi b�y giờ t�i thấy n� l� tiểu thuyết. Đ�y t�i mới l� người tỉnh mộng. Chớ t�i kh�ng hiểu những nh�n vật tỉnh mộng đ� l� ai nữa.

Từ ấy, t�i mới c� một quan niệm r� rệt về tiểu thuyết. T� ra một tiểu thuyết hay l� một tiểu thuyết tạo cho độc giả một cảnh mộng m� độc giả say m� đi v�o cảnh mộng ấy, như v�o cảnh thật vậy. Đến chừng đọc xong rồi, th� xếp s�ch nh�n lại nhan đề, mới hay l� m�nh đ� mộng. Như vậy, t�i c� thể n�i rằng vị gi�o sư đầu ti�n dạy cho t�i văn chương, dạy bản sắc của văn chương, dạy l� thuyết về văn chương, ấy l� Hồ Biểu Ch�nh. Một tiểu thuyết, với nhan đề của n�, l�m cho t�i hiểu r� định nghi� của tiểu thuyết l� g�? Những tiếng của Ph�p như l� Roman, của Anh Novel, T�u l� tiểu thuyết, đều kh�ng l�m sao gi�p t�i hiểu định nghĩa r� rệt của loại m� trong văn chương gọi l� tiểu thuyết cả � ((tr�ch b�i Nhập mộng v� tỉnh mộng của Hồ Hữu Tường, Văn số 80, tưởng niệm Hồ Biểu Ch�nh, ra ng�y 15/4/1967, trang 34).

Kh�ng chỉ c� Hồ Hữu Tường m� Dương Nghiễm Mậu, cũng đ� nh�n thấy ở Hồ Biểu Ch�nh một bậc th�y khai ph�, mở cửa cho �ng v�o thế giới tiểu thuyết, v�o miền Nam, qu� hương thứ hai của �ng, Dương Nghiễm Mậu viết:

� T�i đ� đọc tiểu thuyết của �ng c�ch đ�y mười mấy năm trời, khi c�n theo học những lớp đầu ti�n bậc trung học ở H� Nội (...) Rồi trong nhiều ho�n cảnh kh�c, t�i lần lượt đọc những tiểu thuyết của �ng. Sau n�y, c� một thời gian t�i đ� d�nh th� giờ để đọc lại những g� đ� đọc, đọc những g� chưa đọc với mục đ�ch t�m hiểu, những khởi đầu của nền văn học ta, t�m hiểu những đặc t�nh miền Nam, qu� hương thứ hai t�i y�u dấu. Qu� hương miền Nam, con người, văn chương mở ra cho t�i những b�ng ho�ng kh�ng �t. Cuộc sống nơi những v�ng s�nh lầy hoang vu, trong kinh rạch quyến rũ t�i, t�i kh�ng bỏ một cơ hội n�o để tới những nơi đ�. (...)

Cũng v� thế b�i viết (n�y) như một nhớ ơn, nhớ ơn những người đ� để lại cho ch�ng ta những di sản lớn...� (tr�ch b�i Từ đ� đến nay của Dương Nghiễm Mậu, Văn số 80, trang 57).

Những lời tr�n đ�y của hai nh� văn Hồ Hữu Tường v� Dương Nghiễm Mậu đ� xo� được gần một thế kỷ th�nh kiến v� đ�nh gi� sai lầm về Hồ Biểu Ch�nh, nh� văn ti�n phong đ� đưa văn học Việt Nam v�o thế giới hư cấu của tiểu thuyết hiện đại.

Hồ Biểu Ch�nh c�n đứng ti�n phong như một tiểu thuyết gia nh� nghề. Chữ nh� nghề d�ng ở đ�y kh�ng c� nghi� l� viết văn để kiếm tiền sinh sống, m� �ng đ� coi viết văn như một chuy�n m�n. �ng bước v�o nghiệp văn năm 1906 c�ng l�c với nghề c�ng chức, như một phương tiện sinh sống v� �ng đ� ở với văn chương đến hơi thở cuối c�ng.

Hồ Văn Kỳ Tr�n, người con trưởng của �ng kể lại :

� Bệnh đ� c�ng ng�y c�ng th�m m� ba t�i kh�ng chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba t�i vẫn viết. Con ch�u năn nỉ lắm th� ba t�i chỉ nghỉ v�i ng�y rồi viết nữa v� bảo rằng :� Ba c�n viết được th� cứ để cho ba viết. Ba kh�ng viết được th� l�ng thấy bứt rứt, người thấy kh� chịu hơn. C� viết được l�ng mới thấy y�n ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết l� một phương thuốc, l� một c�ch trị bịnh cho ba đ� (....)

C�ch đ� �t bữa th� ba t�i từ trần. Tr�n b�n viết c�n để lại bản thảo một t�c phẩm viết dở�

Đọc những lời tr�n đ�y, ch�ng ta kh�ng khỏi ngậm ng�i v� k�nh trọng. Bởi v� trước Hồ Biểu Ch�nh, ch�ng ta chỉ c� những nh� nho t�i tử. Truyền thống văn học của ch�ng ta l� t�i tử. Từ Nguyễn Tr�i, Nguyễn Du đến Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đ�nh Chiểu... nh� văn nh� thơ ở nước ta chưa mấy ai coi văn chương, hơn l� một nghề, m� c�n l� mạch sống, l� phương thuốc trị bệnh của con người như Hồ Biểu Ch�nh.