Thảo luận môn đường lối chính sách của Đảng


Thảo luận môn đường lối chính sách của Đảng

Tải file tại đây:

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN LẦN I

MÔN: ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

VỀ CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Câu 1: Những nội dung cơ bản trong lý luận về kinh tế thị trường?

1- Kinh tế thị trường

 1.1– Khái niệm:

      Kinh tế thị trường  là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, khi các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Các chủ thể kinh tế tham gia trên thị trường đều chịu sự tác động của các quy luật thị trường và thái độ ứng xử của họ đều hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.

1.2 Đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường:

Kinh tế thị trường được phát triển ở các loại hình khác nhau trong lịch sử phát triển, nhưng phổ biến nhất là nền kinh tế thị trường hỗn hợp (kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước) và hiện nay có nhiều quốc gia trên thế giới phát triển theo loại hình này.

* Đặc điểm cơ bản của KTTT hỗn hợp:

 + Các chủ thể kinh tế thuộc nhiều TPKT, tự chủ trong SXKD và tự do cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.

+ Thị trường của nền kinh tế thị trường: thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.

+ Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường: cơ chế thị trường như một “guồng máy” tạo tự điều tiết nền kinh tế trong việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế, luồng hàng hóa vận động theo các quan hệ cung cầu, cạnh tranh.

+ Giá cả nền kinh tế thị trường: có chức năng thông tin về cung cầu thị trường, vừa có chức năng phân bổ các nguồn lực.

+ Nhà nước điều tiết nền kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường.

1.3 Các mô hình kinh tế thị trường

 –  Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh: Nền kinh tế chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế.

 – Kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước: Nền kinh tế vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa chịu sự điều tiết của Nhà nước.

2.1- Khái niệm:

     Cơ chế thị trường là tổng hòa các quan hệ kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường.

2.2- Ưu thế và khuyết tật của CCTT:

  –  Ưu thế :

  +  Động cơ lợi nhuận thúc đẩy tạo cho mọi người có được sự năng động, nhạy bén trong kinh doanh.

  + Đảm bảo cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng được tự do lựa chọn các quyết định có lợi nhất cho mình.

  + Có sự sàng lọc tự nhiên đối với sản phẩm, doanh nghiệp và người lao động. Nhờ đó nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển.

– Khuyết tật :

  + Do sự điều tiết mang nặng tính tự phát và mù quáng nên CCTT thường gây ra những mất cân đối kinh tế.

  + Vì mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu nên các hoạt động kinh doanh thường không chú ý đến hiệu quả về mặt xã hội.

  + Gây ra nhiều hậu quả xấu: cạnh tranh và phân hóa giàu – nghèo gay gắt, tệ nạn xã hội phát triển, tâm lý chạy theo đồng tiền…

Do cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường tồn tại cả những mặt ưu và khuyết tật nên rất cần có sự tham gia quản lý của Nhà nước điều tiết nền kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường.

Câu 2: Tính tất yếu và những đặc thù của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Liên hệ thực tiễn?

  1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

  1. Tính tất yếu của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

* Điều kiện trong nước:

 – Do xu thế phát triển của nền sản xuất hàng hoá

– Xuất phát từ yêu cầu cần tiếp tục phát triển những thành tựu mới về kinh tế, xã hội

– Sự đồng thuận và ủng hộ của nhân dân về những quyết sách đổi mới của Đảng và Nhà nước

* Điều kiện quốc tế:

– Mô hình KTTT hiện đang là mô hình kinh tế đạt hiệu quả tốt nhất trong hoạt động kinh tế toàn cầu

  1. Bản chất và đặc thù của nền KTTT ĐH XHCN Việt Nam

3.1 Bản chất của nền KTTT ĐH XHCN Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3.2 Đặc thù của nền KTTT ĐH XHCN tại Việt Nam

– Về mục tiêu phát triển:

     Khai thác các lợi thế của quốc gia nhằm phát triển LLSX, giải phóng sức sản xuất của XH nhằm thu lợi nhuận, từng bước tạo lập tiền đề vật chất cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.

– Về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế:

          Tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu về TLSX, tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế tự do tham gia hoạt động kinh tế trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và cùng có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội.

  Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

– Về chế độ phân phối:

  Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển. Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

– Về chế độ quản lý:

  Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế, bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế bền vững, bảo vệ lợi ích nhân dân, lợi ích người lao động, thực hiện các chính sách XH, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

  1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ĐH XHCN ở nước ta hiện nay

  – Hoàn thiện thể chế KTTT còn chậm, kết quả triển khai, thực thi thể chế KTTT ĐH XHCN còn hạn chế.

– Các yếu tố của thị trường yếu và thiếu đồng bộ làm cho trình độ phát triển của các loại thị trường thấp.

– Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm.

– Hội nhập kinh tế quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phát triển.

– Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường.

Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên và còn hạn chế trong chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.

Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt, trong đó, thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu chưa hợp lý; thị trường tài chính – tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học – công nghệ phát triển chậm.

Câu 3: Giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Tiếp tục nhận thức thống nhất về phương hướng, mục tiêu phát triển KTTT ĐH XHCN.

 – Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các TPKT, các loại hình doanh nghiệp.

 – Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.

– Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.

– Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về KT – XH; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển KT – XH.

*Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã nêu rõ các giải pháp:

Tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội.

Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp

Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.

Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,…) trong cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, Ủy ban nhân dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính; xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.

Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.

Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước. Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp quy mô lớn, chất lượng cao, gắn với các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.

Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường

Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Xây dựng và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, kiên quyết đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế.

Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường đối với thị trường tài chính gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và giám sát của xã hội; phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường các công cụ phái sinh, cho thuê tài sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản vận hành thông suốt, phù hợp quy luật cung – cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; ngăn ngừa đầu cơ, lãng phí. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học – công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất kinh doanh.

Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế

Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư,… Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết. Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế – xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế – xã hội

Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế – xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế – xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế – xã hội ở các cấp, các ngành.

Nhà nước thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn thiện và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội.

Câu 4: Nêu những nội dung cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế?

    1.1 Khái niệm:

       Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng hàng hóa và dịch vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).

    1.2 Các thước đo tăng trưởng kinh tế:

Tổng sản phẩm trong nước (GDP): là tổng giá trị gia tăng (hay cuối cùng) của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).

Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị gia tăng (hay cuối cùng) do dân một nước tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).

    Thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GNP/người): là tỷ số giữa GNP và số dân của một quốc gia.

     1.3 Các yếu tố tăng trưởng kinh tế

     1.3.1 Các yếu tố kinh tế

– Vốn: gồm những tư liệu sản xuất được đưa vào hoạt động kinh tế như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…

– Lao động: nguồn lực con người được huy động vào quá trình hoạt động kinh tế.

– Tài nguyên thiên nhiên: là những yếu tố tự nhiên được sử dụng làm yếu tố đầu vào cho tư liệu sản xuất.

– Khoa học – công nghệ: là tri thức của con người thể hiện qua những phương pháp, phương tiện mà con người vận dụng trong quá trình hoạt động kinh tế.

     1.3.2 Các yếu tố phi kinh tế

– Thể chế chính trị xã hội: gồm các kế hoạch, chiến lược, mục tiêu hoạt động, các quy định pháp lý do Đảng cầm quyền và Nhà nước hiện hành khởi xướng.

– Đặc điểm văn hoá – xã hội: thường thể hiện thông qua lối sống, phong tục, tập quán, thói quen, tâm lý người dân…

– Đặc điểm dân tộc, tôn giáo: truyền thống, tín ngưỡng.

– Sự tham gia của cộng đồng.

  1. Mô hình tăng trưởng kinh tế.

     2.1 Khái niệm

Mô hình tăng trưởng kinh tế là cách diễn đạt quan điểm cơ bản nhất về sự tăng trưởng kinh tế thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng.

     2.2 Các mô hình tăng trưởng kinh tế

     2.2.1 Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng

Là sự tăng trưởng kinh tế dựa trên việc gia tăng số lượng các yếu tố đầu vào như vốn, tài nguyên thiên nhiên, lao động làm chủ yếu. Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng thường gắn với những nền kinh tế có công nghệ lạc hậu, lực lượng lao động có  trình độ thấp là chủ yếu, khai thác tài nguyên thô và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp.

     2.2.2 Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu

Là sự tăng trưởng kinh tế dựa trên việc vận dụng khoa học – công nghệ để nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu thường gắn với những nền kinh tế có công nghệ hiện đại, lực lượng lao động trình độ cao chiếm tỷ trọng lớn và có năng lực thiết kế, chế tạo những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao.

Câu 5: Nêu những yêu cầu, mục tiêu, nội dung và nguyên tắc của đổi mới mô hình kinh tế Việt Nam đến năm 2020?

  1. Sự cần thiết tất yếu của việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay

– Do nền kinh tế Việt Nam vận dụng quá lâu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng dẫn đến nhiều hạn chế, yếu kém về hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh, mất cân đối vĩ mô trầm trọng, bất ổn xã hội và ô nhiễm môi trường.

– Do xu thế toàn cầu hướng tới đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế để giải quyết khủng hoảng tài chính và chống suy thoái kinh tế.

– Do yêu cầu của việc cần chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

  1. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2015 – 2020

2.1 Mục tiêu

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2020 khoảng 3.200-3.500 USD. Tỷ trọng CN và DV chiếm 85% GDP. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32-34% GDP. Bội chi ngân sách khoảng 4% GDP.

Phấn đấu nâng tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) lên 30 – 35%. Năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm. Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1-1,5%/năm

2.2 Nguyên tắc

– Đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.

– Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu

– Gắn kết hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ,

công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân

– Bảo vệ cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng an ninh

– Thực hiện đồng bộ, hiệu quả Đề án tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế và cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực.

2.3 Giải pháp

– Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ĐH XHCN.

– Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế.

– Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị.

– Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học – công nghệ.

– Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

– Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển KT-XH.

– Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế.

Câu 6: Nêu những quan điểm, định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển ngành, lĩnh vực kinh tế theo hướng bền vững ở Việt Nam hiện nay?

Phương hướng phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế của Việt Nam hiện nay

  • Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới

      Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân.

      Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh an toàn thực phẩm. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp bình quân khoảng 2,5 – 3,0%/năm.

      Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao, bảo đảm các tiêu chuẩn theo yêu cầu xuất khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bảo vệ và sử dụng linh hoạt, hiệu quả đất trồng lúa. Khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển các vùng sản xuất quy mô lớn với hình thức đa dạng, phù hợp với quy hoạch và điều kiện của từng vùng, đặc điểm của từng sản phẩm. Coi bảo vệ và phát triển rừng là một giải pháp quan trọng tạo việc làm và nâng cao thu nhập.

      Tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị. Gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản trên cơ sở phát triển các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng giữa hộ gia đình với các tổ chức hợp tác và doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia. Khuyến khích liên kết giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học, công nghệ và doanh nghiệp. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty và các nông, lâm trường quốc doanh[1], góp phần thúc đẩy phát triển nông, lâm nghiệp và hỗ trợ nông dân ở các vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, nhất là Hội Nông dân và các hiệp hội ngành hàng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.

      Có cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp dụng rộng rãi các loại giống mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và thích ứng với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm, nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.

      Tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến năm 2020 khoảng 40 – 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc thù từng vùng. Quy hoạch lại các điểm dân cư phân tán tại địa bàn miền núi, đồng bào dân tộc. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và huy động các nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế – xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa bàn nông thôn. Đồng thời đẩy mạnh đào tạo nghề với các hình thức đa dạng, phù hợp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn. Tập trung giải quyết tình trạng du canh, du cư, di cư tự do.

      Thực hiện tốt các chính sách phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao đời sống của người dân trên địa bàn nông thôn. Tập trung làm tốt công tác nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, trật tự và bảo vệ môi trường. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giữ gìn và phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp của làng quê Việt Nam.

  • Đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp, tạo nền tảng cho CNH, HĐH

      Nghiên cứu hoàn thiện tiêu chí để xác định các chỉ tiêu thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rà soát, bổ sung chiến lược phát triển công nghiệp; phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ. Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp. Đẩy nhanh phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học, công nghệ, có tỉ trọng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 8,0 – 8,5%/năm; đến năm 2020 tỉ trọng công nghiệp, xây dựng trong GDP khoảng 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng 15%.

      Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng đáp ứng nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế. Phát triển công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa dầu, hóa chất với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp cơ khí chế tạo mạnh và sản phẩm cơ khí trọng điểm. Có chính sách phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm. Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật tư và máy nông nghiệp. Tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước, hình thành các khu công nghiệp hỗ trợ theo cụm liên kết ngành. Hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng gió, mặt trời.

      Phát triển vững chắc, hiệu quả công nghiệp quốc phòng, an ninh. Phát triển phù hợp doanh nghiệp có khả năng sản xuất sản phẩm lưỡng dụng. Từng bước hình thành tổ hợp công nghiệp quốc phòng với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp.

      Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến. Tiếp cận và làm chủ các công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực công nghiệp xây lắp, đáp ứng yêu cầu xây dựng trong nước và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng, nhất là vật liệu mới, vật liệu chất lượng cao.

  • Phát triển các ngành dịch vụ

      Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 6,6 – 7,1%/năm. Tỉ trọng khu vực dịch vụ trong GDP khoảng 45% vào năm 2020. Ưu tiên phát triển những ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức, công nghệ và giá trị gia tăng cao.

      Phát triển vận tải với cơ cấu hợp lý, hiệu quả. Tăng thị phần vận tải đường sắt, đường biển và đường thuỷ nội địa. Nâng cao chất lượng vận tải đường bộ và đường hàng không. Tăng cường kết nối giữa các phương thức vận tải, khuyến khích phát triển vận tải đa phương thức và logistics. Tạo môi trường cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm chi phí vận tải.

      Phát triển mạnh dịch vụ thông tin truyền thông đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công.

      Phát triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ. Chú trọng phát triển thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối, các hiệp hội và cơ quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước. Chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu.

      Phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.

      Có chính sách phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch với hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, sản phẩm đa dạng và tính chuyên nghiệp cao. Tạo mọi thuận lợi về thủ tục xuất nhập cảnh, đi lại và bảo đảm an toàn, an ninh. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hóa, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và giữ gìn vệ sinh môi trường. Phát triển các khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn và chất lượng cao.

      Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển mạnh các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao…, nhất là dịch vụ chất lượng cao về đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khoẻ.

      Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển, đảo. Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển, đảo. Đẩy nhanh điều tra cơ bản về tài nguyên, môi trường biển, đảo. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc khai thác hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên biển. Xây dựng các cơ sở hậu cần nghề cá, tránh trú bão, hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ và hoạt động dài ngày trên biển. Tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người dân định cư lâu dài trên các đảo. Tăng cường công tác cứu hộ, cứu nạn và bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, đảo.

  • Phát triển các vùng và khu kinh tế

      Hoàn thiện quy hoạch vùng, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng. Nâng cao chất lượng lập và quản lý quy hoạch, nhất là quy hoạch kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quy hoạch đô thị và quy hoạch sử dụng tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch. Chú trọng phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vùng động lực, các khu kinh tế, các khu công nghiệp. Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương và ứng phó hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu; tạo không gian phát triển thống nhất trong vùng và cả nước; khắc phục tình trạng phát triển trùng dẫm, manh mún, kém hiệu quả. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư liên kết hình thành các vùng kinh tế chuyên ngành quy mô lớn với các nhóm sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Nghiên cứu cơ chế quản lý liên kết, hợp tác phát triển vùng phù hợp. Tạo điều kiện phát triển các khu vực, địa bàn còn nhiều khó khăn, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía tây các tỉnh miền Trung. Rà soát quy hoạch, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy hiệu quả các khu kinh tế hiện có. Lựa chọn một số khu có lợi thế đặc biệt để xây dựng đặc khu kinh tế với thể chế có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Phát triển các hành lang, vành đai kinh tế, kết nối hiệu quả với các nước trong khu vực. Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu. Nghiên cứu việc hình thành một số khu kinh tế xuyên biên giới.

+ Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay

      Tiếp tục đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế – xã hội. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường, cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.

      Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước.

      Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung tạo dựng thể chế, cơ chế, chính sách và môi trường, điều kiện ngày càng minh bạch, an toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường. Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của người dân trong hoàn thiện và thực thi pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, lấy phục vụ nhân dân và lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất.

      Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế

Câu 7: Phân biệt công nghiệp hóa(CNH) , hiện đại hóa (HĐH) với kinh tế tri thức (KTTT).

Công nghiệp hóa:

      CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp , từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp , từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp.

      CNH là quá trình biến 1 nước  nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

+ Về nội dung : trang bị cơ khí cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt trong công nghiệp.

+ Về trình độ : tương ứng với cách mạng công nghiệp ở các nước phương tây thời cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19.

+ Về kết quả: tăng nhanh trình độ kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất lao động xã hội.

     Hiện đại hóa:

      HĐH là quá trình làm cho nền kinh tế mang tính chất và trình độ của thời đại cập nhật cho được những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ.

Cụ thể:

-Tự động hóa sản xuất.

-Công nghệ sản xuất vật liệu mới.

– Phát triển năng lực mới.

-Phát triển các thành phần công nghệ chất lượng cao , nhất là công nghệ điện tử, tin học; công nghệ sinh học.

     Kinh tế tri thức:

      KTTT là một nền kinh tế trong đó việc tạo ra , truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, của quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.

      Trong nền KTTT , tri thức và khoa học công nghệ cao là 2 yếu tố cơ bản.

      Nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thông tin.

     Tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia.

      + Đặc điểm của nền KTTT:

      Lấy tri thức làm cơ sở

      Lấy thông tin làm chỗ dựa

      Lấy TT-TCN  làm hướng hoạt động chính.

      Lấy mạng lưới XN làm khâu truyền tải.

Câu 8: Nêu những nhiệm vụ cơ bản nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở VN?

  • CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
  • Những nhiệm vụ cơ bản nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở VN:
  • Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực có vai trò quyết định tốc độ và chất lượng của sự phát triển kinh tế – xã hội. Để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần phải có trình độ dân trí cao, người lao động có khả năng sáng tạo cao, ham muốn học hỏi một cách tự giác, có khả năng thích ứng và tính linh hoạt cao. Muốn vậy, phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, phải ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo, thực sự coi đó là quốc sách hàng đầu[1].

– Phải tiến hành cải cách toàn diện giáo dục và đào tạo, coi đó là nhiệm vụ cấp bách. Phải chuyển trọng tâm của việc giáo dục từ trang bị tri thức sang bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển. Theo hướng này, cần bổ sung và hoàn thiện chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển kinh tế tri thức phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ CNH, HĐH.

– Xây dựng xã hội học tập dưới nhiều hình thức và biện pháp như trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục từ xa, đào tạo mở v.v…, tạo cơ hội và khuyến khích mọi người dân tham gia học tập, nâng cao tính chủ động cho người học trên cơ sở gắn kết với những yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.

– Nâng cao chất lượng toàn diện cho người lao động. Phải tạo ra được đội ngũ nhân lực có lòng tự trọng, tự tôn dân tộc,có tinh thần trách nhiệm và ý thức cộng đồng khi thực hiện các công việc được giao; phải có trình độ chuyên môn vững vàng, có phương pháp và kỹ năng thực hành bảo đảm năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc được giao; có sự năng động và sáng tạo trong công việc, có ý thức tự giác học hỏi, dám đương đầu với những thách thức; và có sức khỏe tốt.

– Bảo đảm đổi mới quản lý giáo dục và đào tạo, nhất là đổi mới quản lý chất lượng giáo dục và đào tạo phải được coi là khâu đột phá.

  • Phát triển khoa học-công nghệ

Khoa học công nghệ phải là động lực, quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của toàn bộ quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Thực chất của CNH, HĐH là phát triển khoa học và công nghệ. Đảng ta xác định khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của CNH, HĐH đất nước[2].

Để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:

– Xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh.

– Đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác nguồn tài nguyên quốc gia, nắm bắt tri thức mới và các công nghệ cao cùng với những thành tựu mới nhất về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và của nền kinh tế trên thị trường.

– Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Đẩy nhanh tiến trình xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước và là nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.

– Tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực chất lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.

– Phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ để bảo đảm mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị trường, được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.

– Sử dụng các công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ chất lượng cao.

– Bổ sung và hoàn thiện chiến lược phát triển khoa học và công nghệ với những bước đi thích hợp. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và làm chủ những công nghệ và tri thức mới của nhân loại.

  • Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Vốn là là các giá trị của cải do con người tạo ra và tích lũy lại. Nó có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc vốn tài chính. Vốn là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm việc đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trở thành hiện thực.

Vốn được tạo lập từ hai nguồn là tích lũy trong nội bộ nền kinh tế (trong nước) và thu hút từ bên ngoài (nước ngoài và các tổ chức kinh tế quốc tế). Về cơ bản, lâu dài, vốn trong nước là chủ yếu và quyết định, vốn từ bên ngoài là rất quan trong nhất là trong thời kỳ đầu CNH, HĐH.

Việc tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất, nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Tăng năng suất lao động xã hội là con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước. Đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng trong nhân dân trên quan điểm tiết kiệm là quốc sách. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Chống lãng phí, thất thoát vốn.

Để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế mở cửa nền kinh tế, phải  sử dụng nhiều hình thức như thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay vốn, hợp tác liên doanh, thành lập các đặc khu kinh tế, các khu kinh tế mở… đi đôi với kiện toàn hệ thống pháp luật về kinh tế đối ngoại, thực hiện hợp lý các chính sách ưu đãi, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để người và tổ chức nước ngoài vào ta hợp tác đầu tư.

Tạo cơ chế, chính sách để phát triển thị trường vốn trong nước và hội nhập với thị trường vốn quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế.

  • Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các nước. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là một một đòi hỏi thiết yếu. Điều này sẽ tạo ra khả năng và điều kiện để nước ta có thể tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát trển kinh tế tri thức.

Tuy nhiên, để việc trên trở thành hiện thực, cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế, chính sách hợp tác về khoa học và công nghệ, hợp tác đầu tư, hợp tác giáo dục và đào tạo để phát triển nhân lực và phải bảo đảm các hình thức hợp tác vừa có hiệu quả kinh tế cao, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia dân tộc.

  • Bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là một quá trình phát triển không phải một sớm một chiều, mà phải trải qua thời gian khá nhiều năm. Việc bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho quá trình này là rất cần thiết và đây chính là điều kiện tiên quyết để phát triển.

Bảo đảm ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội, xét về thực chất, đó là bảo đảm sự ổn định về môi trường đầu tư. Thực tế cho thấy, một nền kinh tế không thể phát triển được nếu môi trường đầu tư ở tình trạng bất ổn.

– Ổn định về chính trị được thể hiện ở tính nhất quán, tính đồng bộ và ổn định lâu dài của đường lối, phải có tầm nhìn dài hạn, phải xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chính sách CNH, HĐH đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh, tức là phải có chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải ổn định luật pháp, chính sách, nhất là luật pháp, chính sách kinh tế (luật kinh tế, chính sách phát triển công nghiệp, nông nghiệp và phát triển các ngành dịch vụ, chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, phát triển ngoại thương, an toàn thực phẩm, môi trường, chính sách đất đai, tài chính công, ngân hàng, ngoại hối .v.v…).

– Ổn định về kinh tế, trước hết là sự ổn định thị trường, ổn định giá cả, phải kiểm soát được lạm phát, môi trường cạnh tranh phải lành mạnh.

– Ổn định về xã hội thể hiện ở trật tự an toàn xã hội phải được giữ vững.

Chỉ có sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội, thì người dân trong nước mới yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh và mới thu hút được đầu tư nước ngoài cho phát triển. Đảng ta yêu cầu: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”.

Câu 9: Đánh giá thực trạng đẩy mạnh CNH, HĐH, gắn với phát triển tri thức ở VN trong thời gian qua và đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển  trong thời gian tới? 

Thực trạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển tri thức thời gian qua:

      Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội XII khẳng định, sau 30 năm đổi mới, quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước ngày càng được đẩy mạnh và đạt được những thành tựu quan trọng:

      “Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần (…); cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

     “Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; ứng dụng khoa học – công nghệ và mức độ cơ giới hóa được nâng lên; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ”.

   “Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực (…) quá trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh”.

     Cơ cấu kinh tế theo ngành dần chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông – lâm – ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, xây dựng.

     Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH đất nước trong những năm qua còn nhiều hạn chế, kết quả chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đã hoạch định. Cụ thể là:

    “Thực hiện CNH, HĐH còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm”.

    “Chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất”. Vì thế, “nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được”. Trên thực tế, 10/15 tiêu chí của nước ta chỉ đạt mức tương đối thấp, cụ thể là:

Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là do: “Thể chế hóa và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Chưa xác định rõ những ngành, lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên trong chính sách công nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn; thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa CNH, HĐH với đô thị hóa, giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với xây dựng nông thôn mới”. “Chưa chuẩn bị thật tốt các điều kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội nhập quốc tế có hiệu quả; có lúc, có việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

Những giải pháp thúc đẩy phát triển CNH – HĐH:

Thứ nhất, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Nếu mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta trước đây chủ yếu theo chiều rộng thì đến nay đã bước đầu có sự chuyển biến theo chiều sâu. Văn kiện Đại hội XII đã đưa ra định hướng đổi mới mô mình tăng trưởng kinh tế “trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững”

Thứ hai, tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường tất yếu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là phải hướng mạnh vào phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch, tranh thủ những cơ hội “đi tắt, đón đầu” để hình thành nên những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức sẽ phát huy được lợi thế để kết hợp sức mạnh sáng tạo của dân tộc với sức mạnh thời đại khai thác những ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường của khu vực và thế giới để phát huy tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào của nước ta để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xét về lâu dài, lợi thế về lao động chưa qua đào tạo và tài nguyên thiên nhiên sẽ ngày càng cạn kiệt, bởi vậy, cần phát huy lợi thế nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài để cạnh tranh và chiếm lĩnh những ngành có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế tri thức ở nước ta không chỉ nhằm mục tiêu tăng trường kinh tế mà còn nhằm đạt tới cả mục tiêu xã hội, vừa phải đạt được mục tiêu tăng năng suất lao động nhưng vẫn phải tạo thêm ngày càng nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động. Bảo đảm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, hướng tới dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này phản ánh bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa mà quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức mà Việt Nam đang hướng đến. Kế thừa và phát huy những thành tựu, bài học học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu ra phương hướng phát triển đất nước trong 5 năm (2016 – 2020). “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” với chủ trương “công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển”

Thứ ba, điều chỉnh các chỉ tiêu cụ thể cho phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 – 3.500 USD,… tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65% – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%”(18). Quá trình thực hiện các chỉ tiêu của Đại hội XII đồng nghĩa với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Thứ tư, tiếp tục thực hiện chiến lược cán bộ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa công tác cán bộ được Đảng cụ thể hóa, thể chế hóa thành các nguyên tắc về “quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và phát triển; giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống chính trị. Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”. Đúc kết và xây hệ giá trị văn hóa chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng nhằm phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng không còn con đường nào khác hơn con đường phát triển mạnh kinh tế tri thức, chăm lo phát triển văn hóa và con người, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế tạo ra thế và lực để chủ động hội nhập kinh tế thế giới.

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN LẦN II

MÔN: ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

VỀ CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Câu 1. Hãy phân tích quan điểm “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.” (Nghị quyết 33, Hội Nghị TW9, Khóa XI)

  1. Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo ( của các cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc.
  2. Mối quan hệ giữa văn hóa và con người

* Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và XH

Văn hoá là nền tảng tinh thần của XH, đồng thời là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển. VH là mục tiêu của phát triển kinh tế – XH, hướng vào phát triển và hoàn thiện con người. VH do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện

Chǎm lo vǎn hóa là chǎm lo củng cố nền tảng tinh thần của XH. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng XH thì không thể có sự phát triển kinh tế – XH bền vững.

Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu vǎn hóa, vì XH công bằng, vǎn minh, con người phát triển toàn diện Vǎn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố vǎn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động XH trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, XH, luật pháp, kỷ cương,… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

Mục tiêu xây dựng văn hóa cũng là mục tiêu xây dựng con người mới VN XH CN, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế, XH, đồng thời là chủ thể của sự phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước với quyền làm chủ của nhân dân, bồi đắp tình bạn, đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người VN hội tụ đầy đủ các phẩm chất tốt đẹp của cái chân, thiện, mỹ, mang đậm nét truyền thống cốt cách tốt đẹp của con người VN, thống nhất với những phẩm chất của con người mới XHCN giàu tính nhân văn, đậm chất dân chủ, đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động của con người, thông qua thực tiễn con người dần loại bỏ những cái xấu;  sáng tạo, cải thiện cái không phù hợp cũng như giao lưu du nhập cái tiến bộ, cái mới làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Văn hóa sẽ giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống.

* Vai trò của con người đối với sự phát triển văn hóa

Văn hóa luôn gắn liền với con người, là điều tiên quyết quyết định đến hành vi, nhận thức, cách cư xử của con người đối với thế giới xung quanh, sự phát triển phồn vinh của đất nước. Con người thể hiện văn hóa từ cách cư xử, lối sống, đạo đức, giáo giục, pháp luật, giao thông, xây dựng đất nước, bảo vệ tổ Quốc…… góp vai trò quan trọng trong tất cả các lĩnh vực, nhất là việc hoàn thiện nhân cách của con người . Ở tầm vĩ mô có văn hóa con người, văn hóa gia đình, ở mặt XH có văn hóa giao thông, văn hóa ứng xử, văn hóa GD, văn hóa cộng đồng…… Mỗi người chúng ta nếu có nhận thức đúng sẽ góp phần phát huy và phát triển văn hóa ngày một tốt đẹp hơn, ngược lại nếu có nhận thức sai trái, lệch lạc sẽ góp phần làm suy thoái nền văn hóa.

Tóm lại con người là trung tâm của mọi sự phát triển, trong đó có phát triển văn hóa

  1. Thực trạng xây dựng văn hoá và con người VN (NQ 33)

* Thành tựu

Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên.Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực; phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng… XH hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc.

* Hạn chế

Tuy nhiên, so với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong XH có chiều hướng gia tăng.

Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.

Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn XH, tội phạm có chiều hướng gia tăng . Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác.

Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích.

Cơ chế, chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.

Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập.

Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

  1. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng văn hoá và con người VN của văn hoá

4.1. Mục tiêu

* Mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và con người VN phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

* Mục tiêu cụ thể (2 mục tiêu đầu trong nghi quyết 33)

– Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm XH, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.

– Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XH CN và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, XH trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người VN hoàn thiện nhân cách.

– Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

– Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa VN.

– Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng XH. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức XH.

4.2. Nhiệm vụ (2 nhiệm vụ đầu trong nghi quyết 33)

* Xây dựng con người VN phát triển toàn diện

Chăm lo xây dựng con người VN phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân – thiện – mỹ. Gắn xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người VN đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XH CN và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và XH học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người VN thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người VN.

* Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh

Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần GD, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Đưa nội dung GD đạo đức con người, đạo đức công dân vào các hoạt động GD của XH.

Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế – XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, giữa các giai tầng XH, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng.

Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời, đẹp đạo”. Khuyến khích các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, từ thiện, nhân đạo.

Câu 2. Vì sao phải “Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế”?

  1. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng
  2. Môi trường văn hóa là gì?

Môi trường văn hóa là môi trường sống của con người, bao gồm các hoạt động văn hóa của con người. Môi trường văn hóa được tạo nên bởi những yếu tố mà trung tâm chính là con người văn hóa và các quan hệ XH.

Xây dựng môi trường văn hóa  là tạo điều kiện để hoạt động văn hóa diễn ra thường xuyên, liên tục, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người.

  1. Vì sao phải xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa?

– Vì hoạt động văn hóa diễn ra thường xuyên, liên tục.

– Vì nhu cầu văn hóa tinh thần của con người có sự biến đổi.

– Môi trường văn hóa không tách rời, mà nó gắn liền và có quan hệ biện chứng với các dạng môi trường khác, như môi trường chính trị kinh tế, môi trường sống, môi trường sinh thái…

  1. Vì sao phải chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng?

– Vì gia đình là tế bào của XH. Tế bào khỏe thì XH sẽ khỏe, không bệnh tật. Tế bào bị khiếm khuyết sẽ là trở ngại và gánh nặng cho XH phát triển.

– Vì gia đình gắn liền với sự hình thành và phát triển văn hóa của 1 con người. Văn hóa gia đình là 1 mắc xích quan trọng trong việc hình thành nên nền văn hóa chung của cộng đồng à Nêu cao vai trò gương mẫu trong gia đình, tạo sự gần gũi, gắn bó giữa các thành viên trong gia đình.

– Sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và XH sẽ tạo môi trường thuận lợi, đầy đủ, đa dạng cho sự hình thành và phát triển đúng hướng của con người. Khi đó, con người tốt, gia đình tốt, nhà trường tốt và cả cộng đồng sẽ tốt.

Xây dựng môi trường văn hóa chính là để xây dựng con người văn hóa; xây dựng con người văn hóa, có nhân cách, đạo đức, lối sống… sẽ góp phần làm cho môi trường văn hóa phát triển ngày càng lành mạnh hơn. Môi trường văn hóa phải được xây dựng đồng bộ, đó là việc tạo dựng môi trường văn hóa trong hệ thống chính trị, trong cộng đồng dân cư, ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học và mỗi gia đình. Trong đó việc xây dựng môi trường văn hóa ở gia đình, cộng đồng XH rất cần được xem trọng.

Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, gia đình luôn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Sự tồn tại của mỗi cộng đồng, làng, nước phụ thuộc vào sự tồn tại, phát triển của gia đình, nhất là văn hóa gia đình, nơi bảo tồn, lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Đó là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với XH. Thông qua các câu chuyện cổ tích, qua các câu ca dao, tục ngữ, cha mẹ, ông bà là những người thầy đầu tiên dạy dỗ, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển tư duy và từng bước GD hình thành nhân cách cho mỗi con người.

Qua lao động, qua việc xử lý các mối quan hệ hằng ngày, gia đình đã truyền thụ cho con trẻ những nét đẹp của truyền thống gia đình, dòng họ, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ đó mỗi cá nhân hình thành và bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình cộng đồng, lòng nhân ái, tinh thần tự lực, tự cường, anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất…

Tuy nhiên, cuộc sống của XH hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, ở một góc độ nào đó, đã phá vỡ nền nếp gia phong, đạo đức của gia đình truyền thống VN. Tình hình mới cũng tiềm ẩn những thách thức, tạo ra xung đột giữa việc bảo tồn các giá trị đạo đức, lối sống, thuần phong, mỹ tục của gia đình, dân tộc với việc tiếp thu những yếu tố mới của XH hiện đại; làm xuất hiện tình trạng lỏng lẻo trong mối quan hệ ứng xử giữa các thành viên của gia đình, dẫn đến sự thiếu ổn định và bền vững của gia đình.

  1. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; Chú ý đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế
  2. Vì theo quan điểm của CN Mác-lenin, Tư trưởng Hồ Chí Minh: Văn hóa phát triển trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế, chính trị của cộng đồng XH. Mỗi hình thái kinh tế XH sẽ có 1 kiểu văn hóa xác định.
  3. Theo quan điểm của Đảng CSVN (NQ hội nghị lần 5, Khóa VIII) xác định:

– Văn hóa là nền tảng tinh thần của XH, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH.

– Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng. Đội ngũ tri thức mới, đại bộ phận xuất thân từ nhân dân lao động, phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó với nhân dân, với nền văn hóa dân tộc.

– Mặt trận văn hóa cần phải coi trọng như những mặt trận khác trong công cuộc xây dựng đất nước vì dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.

  1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH, bổ sung năm 2011:

– Xây dựng và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là mục tiêu, là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Trong đó, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

– Sự nghiệp đổi mới CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải phát huy cao độ năng lực tinh thần của con người VN về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, kết cấu XH là yếu tố làm thay đổi đời sống văn hóa dân tộc.

* Tóm lại:

– Văn hóa và kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh tế là yếu tố quyết định, nhưng ngược lại, văn hóa sẽ tác động đến sự phát triển của kinh tế.

+ Vai trò của kinh tế đối với phát triển văn hoá: tạo nền tảng vật chất để xây dựng và phát triển văn hoá

+ Vai trò của văn hoá đối với phát triển kinh tế : đinh hướng, điều tiết nền kinh tế, phê phán lối sống thực dụng, kiểu làm an sai trái, phản nhân văn; góp phần quan trọng bảo vệ môi trường sống của con người, vì sự phát triển bền vững.

– Văn hóa và kinh tế giống như yếu tố tinh thần và vật chất trong mỗi con người. Nó tồn tại song song, có mối liên hệ với nhau, có sự tác động lẫn nhau.

– Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế

Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tuỵ, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm XH và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên.

Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế – XH. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu VN có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

– Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa

Huy động sức mạnh của toàn XH nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.

Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản v ă n hóa với phát triển kinh tế – XH. B ảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu, phục vụ GD truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người VN.

Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; các giá trị văn hóa tích cực trong tôn giáo, tín ngưỡng.

Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật VN.

Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật nhằm tập hợp, tạo điều kiện để văn nghệ sĩ hoạt động tích cực, hiệu quả. Khuyến khích nhân dân sáng tạo, trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.

Có cơ chế khuyến khích văn nghệ sĩ, nghệ nhân phát huy tài năng, năng lực sáng tác, quảng bá văn học, nghệ thuật với ý thức đầy đủ về trách nhiệm XH và nghĩa vụ công dân của mình. Trọng dụng, tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước. Chú trọng phát triển năng khiếu và tài năng trẻ.

Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên mạng Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ chế đầu tư theo hướng ưu tiên các cơ quan báo chí, truyền thông chủ lực. Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ chủ yếu; nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, góp phần xây dựng nền văn hóa và con người VN.

Câu 3. Vì sao GD-ĐT và KH-CN là vấn đề quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay?

– GD: là quá trình trao truyền tri thức, kinh nghiệm giữa con người với con người thông qua ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu khác nhằm kế thừa và duy trì sự tồn tại, tiến hoá và phát triển của nhân loại.

– Đào tạo: là hoạt động mang tính chất chuyên môn, nhằm trao truyền một kỹ năng cụ thể cho một loại công việc cụ thể nào đó.

Khoa học: là hệ thống tri thức về quy luật của tự nhiên, XH và tư duy. Hệ thống tri thức này được nghiên cứu và khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm.

Công nghệ: là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực tự nhiên, nguồn lực sản xuất trung gian thành sản phẩm.

  1. GD-ĐT và KH -CN là vấn đề quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay

GD và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trò của GD và đào tạo.

Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã luôn khẳng định GD và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế – XH khác;là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – XH, CNH – HĐH đất nước.

 Với vị trí quốc sách hàng đầu, GD-ĐT có vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – XH. Vai trò của GD-ĐT được thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng ở các kì đại hội.

Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã khẳng định: “Phát triển GD-ĐT là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – XH trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay”.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng nhấn mạnh: “GD-ĐT là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển XH, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.

 Cương lĩnh 2011một lần nữa khẳng định lại quan điểm xuyên suốt của Đảng ta: “GD-ĐT có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người VN.

Theo quan điểm của Mác, con người không chỉ là lực lượng làm chủ tự nhiên một cách thực sự và có ý nghĩa, không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất mà còn là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của XH. Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia thì phát triển GD và đào tạo là phương tiện chủ yếu để quyết định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Con người vừa là trung tâm của mọi sự phát triển, vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Với tư cách là động lực cho sự phát triển, GD – ĐT chuẩn bị cho con người sự phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực, cho lợi ích hiện tại và tương lai của đất nước.

Bên cạnh đó, từ thực tiễn hiện nay, trên cơ sở kinh tế thị trường, các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới đang trong quá trình thực hiện bước chuyển tiếp trình độ phát triển từ kinh tế công nghiệp sang hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã biến tri thức thành yếu tố quan trọng bên trong quá trình sản xuất và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, GD đã trở thành nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế – XH.

Phát triển và ứng dụng KH – CN là quốc sách hàng đầu, một trong những động lực để phát triển kinh tế XH và bảo vệ Tổ Quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Đầu tư cho nhân lực KH – CN là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc.

Như vậy, phát triển GD – đào tạo và khoa học – công nghệ phải được coi là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi.

Việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XH CN và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi yêu cầu rất cao về nguồn nhân lực có năng lực về thị trường, về kinh doanh, về đổi mới và sáng tạo khoa học – công nghệ, sản phẩm mới. Đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới trong phát triển GD – đào tạo và khoa học – công nghệ nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đối với GD, giải quyết vấn đề cạnh tranh trong GD, thương mại hoá GD, công bằng GD, phúc lợi XH trong GD và dịch vụ GD cũng như sở hữu trí tuệ, thị trường khoa học – công nghệ, đào tạo và sử dụng nhân tài.

GD – đào tạo và khoa học – công nghệ không chỉ có ý nghĩa lớn lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hoá tinh thần của chế độ XH CN. GD – đào tạo và khoa học – công nghệ có tác dụng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị XH CN, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống, đạo đức và nhân cách mới của toàn bộ XH. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước không phải chỉ là quá trình đổi mới về khoa học công nghệ, hiện đại hoá, thị trường hoá nền sản xuất XH mà còn là quá trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối sống thích ứng với nhịp độ và tốc độ của XH công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế.

Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh khoa học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút ngắn. Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về khoa học – công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ mới ra đời đòi hỏi quá trình GD phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, suốt đời để người lao động có thể thích nghi được với những biến đổi mới của khoa học – công nghệ. GD – đào tạo và khoa học công nghệ phải được “chuẩn hoá”, “hiện đại hoá”, và hội nhập quốc tế.

Câu 4. Phân tích các nhiệm vụ cần thực hiện nhằm phát triển GD-ĐT trong bối cảnh hiện nay?

  1. Thực trạng phát triển GD – ĐT nước ta hiện nay

* Hệ thống GD quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức GD.

Sau 25 năm đổi mới, GD VN đã được được nhiều thành tựu quan trọng, đã hình thành được một hệ thống GD quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hoá với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn quốc. Các trường, lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy nghề ngắn hạn phát triển mạnh. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Mạng lưới cơ sở GD được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Cả nước đã hoàn thành công tác xoá mù chữ và phổ cập GD tiểu học vào năm 2000 và hoàn thành phổ cập GD trung học cơ sở vào năm 2010, một số nơi đang thực hiện phổ cập GD trung học phổ thông.Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được nâng cấp, cải thiện. Số trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đào tạo sau đại học được hình thành và phát triển vững chắc đang dần dần đảm đương trách nhiệm đào tạo cán bộ khoa học trình độ cao ở trong nước.

Hệ thống GD đã bước đầu được đa dạng hoá cả về loại hình, phương thức và nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế chung của GD thế giới. Từ một hệ thống GD chỉ có các trường công lập và chủ yếu là loại hình chính quy đến nay đã có các trường ngoài công lập, có nhiều loại hình không chính quy, có các trường mở, có phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài.

* Quy mô GD tăng nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo nghề, bước đầu đáp ứng nhu cầu của XH

Quy mô phát triển GD trước hết thể hiện ở số lượng người học. Cùng với số lượng người học, quy mô GD còn được đánh giá qua mạng lưới trường học theo địa bàn dân cư, số lượng nhà giáo, trang thiết bị dạy học. Phát  triển quy mô trong GD ở nước ta vừa tăng số lượng người học vừa đảm bảo cân đối về cơ cấu người học theo địa bàn dân cư, hoàn cảnh XH, làm cho tỷ lệ người học trong dân cư toàn cộng đồng cũng như trong từng nhóm người ngày càng cao, làm cho GD đến với mọi người, làm cho cả XH trở thành một XH học tập.

* Công bằng XH trong GD về cơ bản được đảm bảo

Hệ thống GD quốc dân đã tạo điều kiện cho đại bộ phận nhân dân trong độ tuổi đi học đạt trình độ xoá mù chữ và phổ cập GD tiểu học, phổ cập trung học cơ sở,tiến tới phổ cập trung học phổ thông, tạo cơ hội và những điều kiện cơ bản để một bộ phận nhân dân được học ở các cấp bậc học cao hơn theo nhu cầu và khả năng, chú ý các khu vực đặc biệt khó khăn (vùng cao, vùng sâu, vùng xa), đối tượng là người dân tộc thiểu số, người nghèo và đối tượng chính sách XH. Cả nước đã hoàn thành công tác xoá mù chữ, phổ cập GD tiểu học, phổ cập trung học cơ sở. Gần 98% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ; số năm đi học trung bình đạt 8,5. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong GD cơ sở. Công bằng XH trong GD được cải thiện, đặc biệt đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong XH ngày càng được chú trọng. GD ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa đã có những chuyển biến tích cực, tiếp tục phát triển mạnh mẽ nhờ các chính sách GD cho người dân tộc được ban hành và thực thi có hiệu quả.

* Công tác XH hoá GD đã đem lại kết quả bước đầu

Các lực lượng XH tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ sở vật chất của trường học, đóng góp kinh phí cho GD dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhận thức của nhân dân về sự nghiệp GD có những chuyển biến tích cực. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể đã quan tâm hơn đến sự nghiệp GD, có biện pháp huy động các lực lượng XH tham gia phát triển GD – đào tạo. Nhận thức về ý nghĩa của việc kết hợp GD giữa gia đình, nhà trường và XH không ngừng được nâng cao.

Các loại hình trường lớp đã được đa dạng hoá, đã có thêm các loại hình trường lớp dân lập, tư thục. Các chương trình GD từ xa qua các phương tiện thông tin đại chúng từng bước được tăng cường. Đối với các trường công, Nhà nước đã ban hành và từng bước hoàn thiện chế độ thu học phí và các khoản đóng góp khác, tạo thêm nguồn lực tài chính cho các trường này. Hệ thống trường lớp ngoài công lập tiếp tục được mở rộng, đã tạo điều kiện giảm bớt sức ép đối với các trường công và tạo cơ hội cho các lực lượng XH cùng với nhà nước tham gia vào sự nghiệp GD. Các loại hình trường ngoài công lập phát triển, học sinh ngoài công lập chiếm tỷ lệ đáng kể.

Các nguồn lực đầu tư cho GD được đa dạng hoá với hình thức huy động linh hoạt, phù hợp với khả năng kinh tế và điều kiện của từng địa phương, từng giai đoạn và cá nhân.

* Các điều kiện đảm bảo phát triển GD được cải thiện

Trong những năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, ngành GD và các địa phương đã cố gắng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường ở các cấp bậc học, tạo điều kiện để bảo đảm nâng cao chất lượng dạy và học.

Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng GD. Trong những năm gần đây, điều kiện GD và đời sống giáo viên được cải thiện, những đổi mới trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút ngày càng nhiều học sinh giỏi vào các trường sư phạm, mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên là những yếu tố tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ nhà giáo.

Ngân sách nhà nước chi cho GD đã được nâng dần, từ gần 11% năm 1996 lên 20% tổng chi ngân sách Nhà nước vào năm 2010. Đây là sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với GD. Nhiều địa phương, bên cạnh ngân sách trung ương, còn có thêm từ ngân sách địa phương đầu tư cho GD và đã có nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời huy động nguồn lực của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo đảm chất lượng dạy và học. Đóng góp của nhân dân cho GD là một khoản đầu tư đáng kể, đáp ứng khoảng 30- 40 % chi phí hàng năm của ngành GD. Các nguồn vốn ODA và hỗ trợ không hoàn lại từ nước ngoài cũng đã được bổ sung cho phát triển GD

1.2. Những hạn chế

* Chất lượng và hiệu quả GD nói chung còn thấp

Nhìn chung chất lượng GD còn thấp. Chất lượng GD thấp và không đồng đều giữa các vùng, miền; quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Những năm gần đây, việc cho phép thành lập mới các trường cao đẳng, đại học có phần dễ dãi, trong khi các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật và đội ngũ giảng viên không đảm bảo, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, nhất là các trường ngoài công lập và các trường của địa phương. Hệ thống GD thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối giữa các cấp học, ngành học, cơ cấu, trình độ, ngành nghề, vùng, miền. Việc GD tư tưởng đạo đức, lối sống, về truyền thống văn hoá, lịch sử dân tộc, về Đảng, về quyền lợi và nghĩa vụ công dân cho học sinh, sinh viên chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp; GD phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên.

Chất lượng nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Nhà trường chưa quan tâm đúng mức hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu GD trách nhiệm người công dân, người lao động chân chính cho học sinh, sinh viên.Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: ” Chất lượng GD và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của XH. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu GD không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng GD toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về GD còn bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong GD khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của XH”.

* Đội ngũ giáo viên vừa yếu vừa thiếu và không đồng bộ, phương pháp giảng dạy còn lạc hậu

Người thầy đóng vai trò quyết định chất lượng GD và đào tạo, nhưng thực tế khi quy mô học sinh, sinh viên tăng nhanh đã gây nên sự bất cập giữa quy mô phát triển GD với đội ngũ giáo viên, nhất là ở bậc mầm non và bậc đại học.

Có hiện tượng vừa thiếu, vừa thừa giáo viên do không có sự đồng bộ về loại hình. Rất nhiều địa phương có tổng biên chế giáo viên đủ, thậm chí thừa, nhưng lại thiếu những loại hình giáo viên như ngoại ngữ, âm nhạc, kỹ thuật. Sự hẫng hụt về giáo viên trình độ cao ở các trường đại học ngày càng gia tăng, tuổi trung bình của giáo viên cao.

Phương pháp giảng dạy chưa được cải tiến, phổ biến vẫn là lối dạy thầy truyền đạt, trò tiếp thu thụ động. Điều đó diễn ra không chỉ ở GD phổ thông mà ngay cả ở đại học và sau đại học.

* Quản lý GD còn nhiều yếu kém, bất cập

Công tác quản lý GD còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ yếu của nhiều yếu kém khác. Cơ chế quản lý GD chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý GD còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu. Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hoá những quan điểm của Ðảng thành cơ chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong việc tham mưu với Ðảng về những vấn đề phức tạp mới nảy sinh; thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ mô để thúc đẩy phát triển GD; một số chính sách về GD còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của XH. Tư duy GD chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển GD.

Quản lý GD yếu kém cả trong xây dựng thể chế, chỉ đạo điều hành, kiểm tra giám sát và xử lí vi phạm. Cơ chế quản lý GD chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. đạo đức và năng lực của một bộ phận cán bộ quản lý GD còn thấp. Công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng được yêu cầu. Còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về GD và đào tạo, giữa cơ quan quản lý nhà nước về GD và các cơ quan chủ quản, giữa quản lý GD và đào tạo theo ngành và theo lãnh thổ. Tổ chức quản lý đào tạo nghề qua hơn 25 năm đổi mới chưa ổn định do việc nhập tách. Công tác kế hoạch và tài chính GD còn yếu. Việc tổ chức khảo thí và kiểm định chất lượng GD chưa đáp ứng được yêu cầu.

Nhà nước chưa có biện pháp giúp đỡ một cách có hiệu quả cho những học sinh nghèo có chí và có năng lực học lên cao. Trong các trường đại học và chuyên nghiệp tỷ lệ học sinh, sinh viên xuất thân từ nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, các dân tộc ít người chưa tương xứng. Khoảng cách giữa trình độ phát triển GD giữa các vùng trong cả nước chưa được thu hẹp. GD các dân tộc ít người vẫn còn khó khăn.

 Chính sách học bổng, học phí, tín dụng học tập và các giải pháp trợ giúp khác (việc phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, thực hiện chế độ cử tuyển, xây dựng ký túc xá v.v..) đã có cải tiến, nhưng vẫn còn bất hợp lý, nhất là đối với con em nông dân, công nhân nghèo và các đối tượng chính sách.

* Cơ sở vật chất trường lớp còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nội dung GD còn thiếu thiết thực.

Nhìn chung, cơ sở vật chất của ngành GD vẫn còn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trang thiết bị, phòng thí nghiệp phục vụ giảng dạy và học tập còn thiếu thốn, tình trạng dạy chay còn phổ biến. Số lượng máy tính còn ít, ở các vùng khó khăn, nhiều học sinh không có đủ sách giáo khcoa.

 Điều kiện phục vụ việc dạy và học của các trường học còn kém, rất ít trường đạt chuẩn so với yêu cầu của một nhà trường. Cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo còn nhiều bức xúc và cần có chương trình mục tiêu đầu tư để giải quyết.

Nội dung GD ở các cấp học từ mầm non đến sau đại học còn có nhiều bất cập. Có chỗ vừa quá tải đối với học sinh, sinh viên, có chỗ vừa chưa đáp ứng được những thay đổi theo xu thế của thời đại. Thời gian, sức lực của học sinh dành cho học tập là có giới hạn, nhưng số môn học và nội dung từng môn học ngày càng tăng lên. Theo xu hướng đó, càng học lên cao hơn, thi cử càng gắt gao hơn, việc học thêm, luyện thi lại căng thẳng, nặng nề hơn.

Chương trình GD còn nặng nề, chưa bám sát yêu cầu của cuộc sống năng động. Nhiều phần trong chương trình đào tạo đại học và chuyên nghiệp đã lạc hậu. Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập, nghiên cứu thiếu thốn và cũ kỹ.Chương trình, giáo trình, phương pháp GD chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá; nhà trường chưa gắn chặt với đời sống XH và lao động nghề nghiệp, chưa chú trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên; thi cử còn nặng nề, tốn kém. Phổ cập GD trung học cơ sở nhiều nơi chưa vững chắc.

Thực tiễn phát triển GD nước ta hiện nay cho thấy ba mâu thuẫn đang tồn tại cần được giải quyết.

Một là: mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh quy mô và gấp rút nâng cao chất lượng của GD với khả năng đáp ứng hạn chế của nền kinh tế và năng lực còn yếu của hệ thống GD.

Hai là: mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin, tri thức tăng nhanh trong khi thời gian dành cho GD có hạn đang ngày càng trở nên gây cấn. Mâu thuẫn này đặt ra cho GD bài toán về đổi mới nội dung và phương pháp GD, tận dụng tối đa chính những thành tựu của KHCN để đổi mới GD.

Ba là: mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới GD đang ngày càng gay gắt với yêu cầu giữ sự ổn định tương đối cho hệ thống.

  1. Những nhiệm vụ cần thực hiện nhằm phát triển GD-ĐT trong bối cảnh hiện nay

* Trước hết tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới GD-ĐT.

* Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Trên cơ sở mục tiêu đổi mới GD-ĐT, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo.

* Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả GD, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Đổi mới phương thức thi của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo;  công nhận tốt nghiệp THPT theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho XH mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh GD nghề nghiệp và GD ĐH.

* Hoàn thiện hệ thống GD quốc dân theo hướng hệ thống GD mở, học tập suốt đời và xây dựng XH học tập. Trước mắt, ổn định hệ thống GD phổ thông như hiện nay. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở THPT. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống GD phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển GD của thế giới. Thực hiện phân tầng cơ sở GD ĐH theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. …

* Đổi mới căn bản công tác quản lý GD-ĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm XH của các cơ sở GD-ĐT.

* Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT. Trong đó, khẳng định, lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.

* Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn XH; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GD-ĐT. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển GD-ĐT, ngân sách nhà nước chi cho GD-ĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở GD-ĐT công lập…

* Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học GD và khoa học quản lý và cuối cùng là chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD-ĐT…

* Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GD-ĐT…

  1. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển GD và đào tạo trong những năm tới

Một là: chuyển sang mô hình GD mở- XH học tập, học tập suốt đời:

– Đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học.

– Tạo điều kiện cho mọi người được học tập, với hình thức linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên.

– Bảo đảm công bằng, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học.

Việc tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi người ở mọi lúc, mọi nơi sẽ góp phần quan trọng để xây dựng XH học tập. Vì vậy, ngoài việc tổ chức dạy học trên lớp, việc tăng cường GD từ xa, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh đào tạo trực tuyến E-learning được coi là một giải pháp hữu hiệu tạo cơ hội học tập tốt cho mọi người.

Hai là: đổi mới mạnh mẽ nền GD mầm non và GD phổ thông theo hướng:

– Khắc phục tình trạng quá tải.

– Bảo đảm tính khoa học, phù hợp lứa tuổi và điều kiện đất nước,

– Kết hợp với phân ban và tự chọn ở THPT.

– Bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng phổ cập GD.

Ba là: phát triển hệ thống GD nghề nghiệp :

– Tăng quy mô cao đẳng và trung học nghề.

– Đẩy mạnh dạy nghề cho nông dân và đồng bào dân tộc.

– Xây dựng trường Đại học trọng điểm trình độ khu vực và quốc tế

Bốn là: đổi mới hệ thống GD đại học và sau đại học :

– Gắn đào tạo với sử dụng

– Có  liên kết trường với cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp.

– XH hóa hoạt động dạy nghề.

Năm là: đào tạo giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học và cấp học.

Sáu là: tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học:

– Phát huy tính tích cực của người học, khắc phục truyền đạt một chiều.

– Hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng GD.

– Cải tiến hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng GD.

Bảy là: thực hiện XH hóa GD:

– Huy động mọi nguồn lực cho GD

– Tăng cường thanh tra, kiểm tra các hoạt động GD.

– Phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các tổ chức chính trị – XH.

Tám là: đổi mới cơ chế quản lý GD:

– Phân cấp, tạo động lực và chủ động cho các cơ sở GD.

– Xác định mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển GD, hỗ trợ các vùng khó khăn.

Chín là: tăng cường hợp tác quốc tế về GD và đào tạo:

– Tiếp cận nền GD tiên tiến của thế giới.

– Tham gia đào tạo nhân lực khu vực và thế giới.

Câu 5. Vì sao Chính sách xóa đói giảm nghèo là chìa khóa then chốt trong việc giải quyết các vấn đề XH mang tính cấp bách hiện nay ở nước ta?

Chính sách XH là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ XH của con người, giải quyết những vấn đề XH đang đặt ra và thực hiện bình đẳng, công bằng, tiến bộ XH, phát triển toàn diện con người.

Đối với VN hiện nay, do đặc thù là một đất nước đang phát triển, chịu ảnh hưởng bởi chiến tranh, thiên tai…do vậy đã hình thành hành loạt các chính sách XH quan trọng và thiết yếu như: chính sách lao động – việc làm; chính sách GD – đào tạo; chính sách y tế; chính sách xóa đói giảm nghèo; chính sách bảo hiểm XH; chính sách bình đẳng giới; chính sách dân số; chính sách dân tộc…Như vậy, chính sách xóa đói giảm nghèo là một trong những chính sách XH mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nó được coi là chìa khóa then chốt trong việc giải quyết các vấn đề XH mang tính cấp bách hiện nay ở nước ta.

  1. Vai trò của chính sách xóa đói giảm nghèo

2.1. Đối với phát triển kinh tế – XH

Nghèo đói không chỉ là thách thức đối với các nước nghèo và nước đang phát triển mà còn là mối quan tâm hàng đầu của cả thế giới. Nó được coi là một vấn nạn XH bởi vì đó là một vết thương ăn sâu vào mọi phương diện của đời sống văn hóa và XH.

2.2. Đối với phát triển kinh tế

Với bất kì quốc gia nào, khi tỉ lệ đói nghèo cao, đó sẽ là biểu hiện của một nước nghèo, một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển. Nghèo đói luôn đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn đối với sự phát triển của XH. Vì thế, nếu như vấn nạn đói nghèo được đẩy lùi thì đó sẽ là động lực to lớn để đẩy nhanh tiến trình phát triển của XH, đặc biệt là kinh tế. Ngược lại, sự phát triển kinh tế XH vững chắc ổn định, đi đôi với công bằng và an sinh XH là nhân tố đảm bảo thành công trong cuộc chiến chống đói nghèo. Do vậy, có thể khẳng định, xóa đói, giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế luôn có mối quan hệ hỗ trợ và tương tác nhau. Xóa đói, giảm nghèo góp phần tạo điều kiện cho người thu nhập thấp có cơ hội tham gia phát triển kinh tế kết hợp nâng cao năng lực của bản thân, tự vươn lên xóa đói, giảm nghèo cho chính bản thân và gia đình.

Trên cơ sở đó, chính sách xóa đói, giảm nghèo đã giảm nhanh tỉ lệ hộ đói nghèo, rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ, sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Tạo điều kiện cho kinh tế phát triển đồng đều giữa các địa phương.

Xóa đói, giảm nghèo sẽ tạo điều kiện và góp phần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – đội ngũ nòng cốt để phát triển kinh tế – XH. Các chương trình, chính sách xóa đói, giảm nghèo của bất kì quốc gia nào không chỉ nhằm mục đích trực tiếp góp phần phát triển kinh tế – XH ở những vùng khó khăn mà còn tạo ra một lực lượng cán bộ tại chỗ cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

2.3. Đối với vấn đề an ninh, trật tự XH

Chúng ta biết rằng, bất kì nhà nước nào muốn giữ vững chính quyền thì phải dựa trên nền tảng nhân dân, được nhân dân tin yêu, ủng hộ. Khi đó, mọi đường lối, chính sách của nhà nước sẽ được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng và thi hành. Vì thế, nếu người dân cứ phải quẩn quanh với cái nghèo đói, với miếng cơm manh áo hàng ngày thì nhận thức về vấn đề chính trị – XH, các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của họ sẽ rất hạn chế. Không những vậy, khi bản thân người nghèo không đủ điều kiện tìm hiểu cũng như nhận thức thấp về pháp luật, họ không thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình nên tâm lí thường ít quan tâm đến vấn đề của nhà nước.

Mặt khác, một đất nước khi có sự chênh lệch quá lớn về nhiều mặt giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo thường xảy ra các mâu thuẫn khi tới đỉnh điểm sẽ dẫn đến xung đột, gây bất ổn về mặt chính trị làm cho hệ thống chính trị có nguy cơ bị phá vỡ. Một quốc gia không có sự ổn định về mặt chính trị sẽ không có cơ hội để phát triển kinh tế.

2.4. Đối với phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa

Sự nghèo đói về kinh tế kéo theo hệ lụy của nó chính là nghèo đói về văn hóa. Trong quá trình giao lưu, hợp tác, các nước nghèo rất khó khăn khi muốn giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc. Nền văn hóa của họ dễ phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế. Từ đó, các nước nghèo không chỉ bị lệ thuộc về vấn đề kinh tế mà còn bị áp đặt bởi văn hóa khác.

Mặt khác, khi rơi vào hoàn cảnh nghèo đói, túng quẫn con người ta dễ bị tha hóa đạo đức và nhân cách dẫn đến các tệ nạn XH phát sinh như ma túy, mại dâm, cờ bạc … Vấn đề an ninh XH không đảm bảo đến một mức độ nhất định thì XH sẽ bị mất ổn định. Trật tự, kỉ cương, pháp luật sẽ bị đảo lộn.

Không những vậy, khi khoảng cách về mức sống và thu nhập được thu hẹp thì khoảng cách về hưởng thụ văn hóa và các dịch vụ công cũng được cải thiện.

Do đó, nếu thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo sẽ là nhân tố trực tiếp làm giảm thiểu việc hủy hoại môi trường tự nhiên, ngăn chặn sự xuống cấp của đạo đức, giữ vững và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa, nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho nhân dân. Đồng thời, tạo điều kiện người nghèo ở những nơi khó khăn nhất có điều kiện học tập, cơ hội tìm kiếm việc làm, … Từ đó, không những các vùng có tỉ lệ hộ đói nghèo cao sẽ từng bước giảm dần mà từng bước theo kịp trình độ phát triển ở những nơi khác.

2.5. Đối với việc giải quyết các vấn đề XH                                                               

Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt khác của đời sống XH như: y tế, văn hóa, GD, con người, bất bình đẳng trong XH  v.v.. Người nghèo không tiếp cận được với rất nhiều dịch vụ và cơ sở hạ tầng cơ bản, từ giao thông, GD, nước sạch, nhà ở, an sinh XH, thông tin …

Xóa đói, giảm nghèo đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng ở những nơi khó khăn, tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giữa các vùng về phát triển giao thông, thông tin liên lạc, văn hóa, y tế, GD,… Chính sự phát triển kết cấu hạ tầng sẽ là nền tảng cơ bản để những vùng, miền khó khăn có điều kiện rút ngắn khoảng cách phát triển so với đồng bằng và thành thị về trình độ dân trí, nâng cao đời sống văn hóa, …

Từ đó, nó góp phần thực hiện công bằng XH và thúc đẩy phân hóa XH theo hướng tích cực.

Vì thế, việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – XH trong từng thời kì. Phát triển kinh tế phải đồng thời gắn liền với xóa đói, giảm nghèo; nếu xóa đói, giảm nghèo không được giải quyết một cách triệt để thì các mục tiêu về phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, ổn định XH, bảo đảm quyền con người… khó được thực hiện.

  1. Thực trạng của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo hiện nay

Từ đại hội VI cho tới Đại hội XI của Đảng vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đảng và Nhà nước coi việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo thể hiện tính ưu việt của CN XH. Đây được coi là một nhiệm vụ then chốt trong Chiến lược phát triển kinh tế – XH từ nay đến năm 2020.

3.1. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Thứ nhất, xóa đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt.

Thứ hai, xóa đói, giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người nghèo đói.

Thứ ba, xóa đói, giảm nghèo luôn đi đôi với thực hiện công bằng XH

Thứ tư, xóa đói, giảm nghèo là công việc của toàn XH

  • Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu nhất định:

– Thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ XH cơ bản của người nghèo (y tế, GD, dạy nghề, nhà ở, nước sinh hoạt);

– Thứ hai, tạo việc làm và thu nhập thông qua các chính sách bảo đảm đất sản xuất, ưu đãi tín dụng, khuyến nông – lâm – ngư, phát triển ngành nghề;

– Thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Theo số liệu thống kê của Bộ LĐTBXH hộ nghèo giảm từ 26, 2% (năm 2000) xuống còn 10,7% (2010). Thu nhập bình quân đầu người của VN đã vượt qua mốc của một nước nghèo (1.000USD) và trở thành nước có thu nhập trung bình. Cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống và sản xuất của nhân dân ở khu vực các xã đặc biệt khó khăn đã được cải thiện đáng kể với hàng vạn công trình điện, đường, trường, trạm, thủy lợi… được xây dựng và đưa vào sử dụng. Đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa đã có nhiều thay đổi căn bản. Quan trọng hơn, các chính sách đúng đắn và kịp thời cùng nỗ lực kiên trì xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đã kích thích, khơi dậy ý chí, năng lực vươn lên thoát nghèo của nhân dân, giúp một bộ phận không nhỏ người nghèo thoát ra khỏi tình trạng nghèo cùng cực.

  • Công tác xóa đói giảm nghèo vẫn còn gặp những khó khăn

Tình trạng nghèo sâu, nghèo kinh niên vẫn còn tập trung vào đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực đặc biệt khó khăn, tập trung nhiều ở khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ.

Hiện nay tỷ lệ tái nghèo vẫn chiếm 7-10% trong tổng số thoát nghèo hằng năm.

Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường, môi trường ô nhiễm, mất đi người trụ cột của gia đình, thất nghiệp…) cũng vẫn rất lớn.

 Hệ thống an sinh XH chưa phát huy tác dụng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt và 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp có thể dẫn đến nguy cơ tái nghèo đói cao.

Ngoài ra, nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn.

  1. Quan điểm của Đảng về chính sách xóa đói giảm nghèo

* Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của XH và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – XH bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng XH, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xoá đói giảm nghèo.

* Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời, phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình.

* Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung trong cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Căn cứ vào tinh thần của Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn thêm một số huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất là các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu tư hỗ trợ các huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững.

Câu 6. Hãy phân tích sự vận dụng của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở VN?

  1. Quan điểm của CN Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, tôn giáo
  • Nội dung cương lĩnh dân tộc

* Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng

Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trong quan hệ XH cũng như quan hệ quốc tế. Không có đặc quyền, đặc lợi của dân tộc này đối với dân tộc khác.

* Các dân tộc được quyền tự quyết

Thực chất là quyền làm chủ của một dân tộc, tự  mình quyết định vận mệnh của dân tộc mình; là giải phóng các dân tộc bị áp bức (thuộc địa và phụ thuộc) khỏi ách thống trị của CN thực dân, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước tiến lên theo con đường tiến bộ XH.

* Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc

Giai cấp công nhân thuộc các dân tộc khác nhau đều thống nhất, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung  vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh dân tộc của CN Mác – Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước XHCN.

  • Quan điểm của CN Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong CNXH

Để giải quyết vấn đề tôn giáo, theo CN Mác – Lênin phải thể hiện rõ quan điểm và thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo. Giải quyết tôn giáo trên cơ sở của CN duy vật biện chứng. Tuy nhiên, trong những điều kiện cụ thể không có thái độ xem thường hoặc phủ nhận nhu cầu tín ngưỡng và tự do tôn giáo

CN Mác – Lênin cũng lên án các mưu toan tuyên chiến với tôn giáo. Tuyên chiến với tôn giáo thực chất là củng cố thêm CN tăng lữ chiến đấu, là đẩy cuộc đấu tranh chống tôn giáo lên đấu tranh giai cấp và kích động thêm sự quan tâm của người ta đối với tôn giáo, làm cho tôn giáo tiêu vong khó khăn hơn.

* Những nguyên tắc trong giải quyết vấn đề tôn giáo

Lênin cho rằng, cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, nhằm xóa bỏ nguồn gốc XH của tôn giáo. Muốn thế, cần giải quyết vấn đề tôn giáo trong mối quan hệ chung của cuộc đấu tranh cách mạng với xây dựng CNXH; phải GD tư tưởng mácxít, thế giới quan khoa học và làm cho nhân dân lao động hiểu được lợi ích của mình trong sự nghiệp xây dựng XH mới.

– Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo

– Cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo

– Cần phân biệt 2 mặt nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo với lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo

  1. Tình hình vấn đề dân tộc và tôn giáo ở nước ta hiện nay

2.1. Về vấn đề dân tộc

VN là quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số chiếm 14% dân số cả nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới), cùng cư trú, tồn tại và phát triển trên lãnh thổ VN, đã sớm hình thành các đặc điểm cơ bản:

– Cộng đồng các dân tộc VN chung sống đoàn kết, hoà hợp. Ngay từ thuở khai sinh, các dân tộc phải cố kết, chung sức, chung lòng chống chọi với thiên nhiên, bão lũ; tinh thần đoàn kết càng được phát huy hơn trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Trong sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN, truyền thống đoàn kết, thống nhất dân tộc không ngừng được củng cố và phát triển, tạo nên sức mạnh vĩ đại để chiến thắng thiên tai, chiến thắng thù trong, giặc ngoài đem lại thắng lợi của cách mạng VN.

– Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau, có trình độ phát triển kinh tế – XH không đồng đều, nhưng không có sự phân chia lãnh thổ và chế độ XH riêng. Hình thái cư trú xen kẽ nhiều dân tộc anh em, phản ánh mối quan hệ đoàn kết, thống nhất của cộng đồng dân tộc VN trong một quốc gia. Những năm gần đây, gắn liền với sự phát triển kinh tế, văn hoá, XH, tính chất đan xen đó càng tăng lên. Hiện nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào chỉ có một cồng đồng hai dân tộc sinh sống, như: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng… Do địa bàn cư trú, phong tục tập quán và tâm lý, lối sống của các dân tộc, nên trình độ phát triển kinh tế – XH của vùng, miền dân tộc không đồng đều. Một số dân tộc có dân số ít, ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế – XH còn gặp khó khăn, như: Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu…

– Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên nền văn hóa VN đa dạng, phong phú, thống nhất. Mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán, tâm lý, lối sống, tín ngưỡng tôn giáo mang tính đặc thù, tạo nên những sắc thái văn hóa riêng của từng dân tộc, tồn tại và phát triển trong tính đa dạng và thống nhất của nền văn hóa các dân tộc VN.

– Địa bàn cư trú của các dân tộc thiểu số có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ bền vững môi trường sinh thái. Đồng bào cư trú suốt dọc tuyến biên giới phía Bắc, Tây và Tây Nam, có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là địa bàn có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, có hệ thống rừng phòng hộ, rừng đặc dụng phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước và bảo vệ bền vững môi trường sinh thái. Trong tình hình hiện nay, miền núi là địa bàn tiềm năng, mang tính chiến lược, cơ bản cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

– Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến phức tạp. Kết cấu hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, dịch vụ) ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng vẫn còn khó khăn, nhiều nơi môi trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái.

– Tỉ lệ hộ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi cao hơn so với bình quân chung cả nước, khoảng cách chênh lệch về mức sống, về trình độ phát triển kinh tế – XH giữa các dân tộc, giữa các vùng ngày càng gia tăng; chất lượng, hiệu quả về GD đào tạo còn thấp, công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn, một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị mai một, một số tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển.

– Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu, tỉ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học thấp. Năng lực, trình độ cán bộ xã, phường còn hạn chế, số lượng đảng viên là người dân tộc thiểu số thấp, vẫn còn thôn bản chưa có đảng viên. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và đoàn thể ở nhiều nơi chưa sát dân, chưa tập hợp được đồng bào.

– Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống, trình độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, phá hoại truyền thống đoàn kết và thống nhất của cộng đồng các dân tộc VN, gây mất ổn định chính trị, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm.

2.2. Về vấn đề tôn giáo

– VN là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Đến nay Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân cho 12 tôn giáo và cấp đăng ký hoạt động cho 32 tổ chức tôn giáo (tôn giáo gồm: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội VN, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ ân Hiếu nghĩa, Giáo hội Phật đường Nam tông Minh sư đạo, Minh lý đạo – tam tông miếu và đạo Bà hải. Chức sắc các tôn giáo: Phật giáo 48.498, Công giáo 3.394, Tin lành 132, Cao Đài 14.261, Hòa Hảo 1.956, Hồi giáo 699. Cơ sở thờ tự: Phật giáo 16.984, Công giáo 5.546, Tin lành 320, Cao Đài 1.290, Hòa Hảo 39, Hồi giáo 79. Cơ sở đào tạo: Phật giáo Học viện Phật giáo 4; Công giáo Đại chủng viện 6); khoảng 25% dân số là tín đồ theo các tôn giáo. Số lượng tín đồ 6 tôn giáo lớn: Phật giáo 10 triệu; Công giáo 5,9 triệu; Cao Đài 2,4 triệu; Phật giáo Hòa Hảo 1,3 triệu, Tin lành gần 1 triệu; Hồi giáo trên 7 vạn.

– Đại đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân cư trú trên địa bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo cư trú ở các địa bàn Tây Bắc (100 ngàn), Tây Nguyên (400 ngàn), Tây Nam Bộ (1,3 triệu).

– Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số chức sắc và tín đồ các tôn giáo tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hành đạo trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Phát huy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN XH CN.

– Tuy nhiên, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn các yếu tố có thể gây mất ổn định ở cơ sở:

+ Một số tôn giáo đẩy mạnh củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, phô trương thanh thế, lợi dụng truyền đạo trái pháp luật, kích động tín đồ đòi đất, cơ sở thờ tự của tôn giáo. Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo kích động tín đồ tham gia hoạt động chống đối chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc gây mất ổn định chính trị XH.

+ Thành lập các Hội đoàn tôn giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ, làm giảm vai trò, uy tín của đảng viên có đạo ở cơ sở địa phương. Còn xuất hiện “tà đạo” mang yếu tố mê tín, phản văn hoá, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

+ Các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng nước ta.

  1. Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo dân tộc

– Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn thể XH về vị trí, nhiệm vụ của công tác dân tộc trong tình hình mới.

– Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế – XH vùng dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới

– Huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư, phát triển, giúp đỡ vùng dân tộc và miền núi. Ưu tiên đầu tư cho xóa đói, giảm nghèo, phát triển nhanh kinh tế – XH, giải quyết những khó khăn bức xúc của đồng bào vùng dân tộc và miền núi ; trước hết tập trung cho các vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện nghiêm chỉnh việc công khai hóa các chính sách, chương trình, dự án, vốn đầu tư… để đồng bào biết và tham gia quản lý, giám sát quá trình thực hiện.

– Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc.

– Kiện toàn và chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức cơ quan làm công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương. Tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc để làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách dân tộc.

– Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX về công tác tôn giáo, đã thống nhất quan điểm và chính sách của Đảng ta như sau:

  1. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
  2. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
  3. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách KT-XH, an ninh quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
  4. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
  5. Vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo qui định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động tôn giáo theo pháp luật qui định và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các qui định của Hiến pháp và pháp luật.

Tóm lại, CN Mác-Lênin đã lý giải vấn đề tôn giáo một cách có khoa học, khách quan, đúng đắn, làm nền tảng tư tưởng để từ đó Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương chính sách về tôn giáo, giải quyết được những vấn đề tư tưởng của nhân dân có đạo, thực hiện được đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Là cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ quản lý cần phải nhận thức sâu sắc quan điểm của CN Mác-Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo để làm nền tảng tư tưởng trong mọi hoạt động, đồng thời thực hiện tốt chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, nhằm góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”.

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI & CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG LẦN 3

QUỐC PHÒNG – AN NINH – ĐỐI NGOẠI

 Câu 1: Phân tích mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. 

A/ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc?

Là mưu lược (kế sách) của Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng – an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hóa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai can thiệp, xâm lược của giặc ngoài, thù trong, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc:

  1. Học thuyết Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Bảo vệ Tổ quốc XHCN (Đề cao cảnh giác): ngay khi cách mạng XHCN thắng lợi, cùng với việc thiét lập NN của GCCN và NDLĐ thì Tổ quốc XHCN cũng hình thành. Song song với nhiệmvụ XD CNXH là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đây là 2 nhiệm vụ chiến luợc gắn bó hữu cơ với nhautrong suốt quá trình CM XHCN. Vận dụng sáng tạo CN Maclenin, trên cơ sở thực tiển của Lịch sở VN. Chủ tịch HCM đã đưa ra hệ thống quan điểm, tư tưởng làm cơ sở cho đường lối của Đảng trong lĩnh vực bảo vệ TQ XHCN, phù hợp quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc” Dựng nước phải di đôi với giữ nước”
  2. 2. Đường lối, quan điểm của Đảng CSVN về xây dựng đất nước và tăng cường quốc phòng – an ninh bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
  3. Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và tình hình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
  4. Về đối tượng của cách mạng Việt nam hiện nay:

      + Xác định đối tượng, đối tác:

Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng mối quan hệ hữu nghị, hơp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt nam đều là đối tác của chúng ta.

Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam XHCN đều là đối tượng đấu tranh.

        +  Một chủ thể có thể vừa là đối tác vừa là đối tượng. Hai mặt đối tác và đối tượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.

  1. 5. Dự báo tình hình trong những năm tới trên thế giới cũng như trong nước có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

+ Tình hình thế giới:

Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng sẽ có những diễn biến, phức tạp mới tiểm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường.

Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo,xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố…có thể gia tăng.

Cục diện thế giới đa cực hình thành ngày càng rõ hơn. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau chi phối các mối quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục điều chỉnh chiến lược tập hợp lực lượng mới trong khu vực và trên thế giới.

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt.

+ Tình hình trong nước:

Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Những nguy cơ, thách thức mà Đảng ta đã cảnh báo vẫn tồn tại.

Các thế lực thù địch cấu kết với bọn phản động trong nước và nước ngoài tăng cường các hoạt động chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn, hình thức mới hết sức thâm độc, nguy hiểm.

Tình hình trong nước trong những năm tới ổn định chính trị tiếp tục giữ vững, kinh tế – xã hội phát triển, tiềm lực của đất nước được tăng lên. Nhưng đất nước ta sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới.

B/ Mục tiêu chung của chiến lược:

  1. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:

Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là những nội dung chủ yếu về mặt tự nhiên – lịch sử.

Bảo vệ Độc lập chủ quyền là bảo vệ quyền tự quyết thiêng liêng của dân tộc, quyền lựa chọn con đường phát triển, thể chế chính trị của đất nước. Đó là xây dựng và bảo vệ nền kinh tế độc lập, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa., sông có thể cạn, đá có thể mòn, song chân lý này không bao giờ thay đổi. Độc lập chủ quyền không chỉ là vấn đề lãnh thổ với không gian, địa lý xác định, mà còn là trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, v.v. Trước hết, là độc lập về chính trị, sự tự chủ về chính trị, tự quyết định vận mệnh tương lai, con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền quyết định đó của nhân dân ta không ai có thể xâm phạm.

Bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ hiện naylà bảo vệ sự thống nhất của Tổ quốc, bảo vệ chân lý “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, bao gồm cả chủ quyền biển, đảo trong mối quan hệ chỉnh thể độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia. Sự Thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm toàn bộ đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo đã được hình thành, định hình trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó là bảo vệ vững chắc, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Đó là bảo vệ sự toàn vẹn của hơn 331.051km2 đất liền, hơn 1 triệu ki-lô-mét vuông vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên biển Đông.

Sự thống nhất còn là sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc, của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và sự thống nhất giữa cộng đồng người Việt Nam trong nước với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Sự thống nhất ấy được dựa trên cơ sở cùng nhau hướng tới và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự thống nhất về địa lý lãnh thổ và chính trị – xã hội quan hệ chặt chẽ, hòa quyện với nhau, tạo nên chỉnh thể thống nhất toàn vẹn của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải bảo vệ bằng mọi giá.

Để thực hiện mục tiêu này, cần kiên quyết đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, làm thất bại mọi ý đồ kích động, xu hướng ly khai, thành lập cái gọi là “Nhà nước Khơme Crôm độc lập” ở Tây nam bộ, “Nhà nước Đề ga độc lập” ở Tây nguyên “Nhà nước Mèo” ở Tây Bắc….Cần thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc đêr  đảm bảo sự thống nhất lãnh thổ.

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững. Thời gian qua, sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển trở thành nhiệm vụ nhiều khó khăn, thách thức. Để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển. Đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu toàn diện và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân

Bên cạnh đó phải bảo tồn,  bảo vệ và phát huy truyền thống,  bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, phải giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế, sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên vì lợi ích chung, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.

Cần phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hòa bình độc lập chủ quyền, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình huống; Bố trí chiến lược lực lượng quân đội đáp ứng yêu cầu phòng thủ đất nước. Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng..Đồng thời, các lực lượng quốc phòng, an ninh phải chủ động nắm chắc tình hình, dự báo đúng các tình huống phức tạp có thể xảy ra, phát hiện kịp thời các âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch để có phương án, biện pháp ứng phó, ngăn chặn hiệu quả. Thường xuyên điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các phương án tác chiến, kế hoạch phòng thủ trên phạm vi cả nước, từng hướng chiến lược phù hợp với sự thay đổi của tình hình; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý chặt chẽ biên giới, vùng trời, vùng biển.

Tuy nhiên, cũng cần phải thấy lực lượng quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại là cần thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức mạnh và các biện pháp phi vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mà không phải tiến hành chiến tranh, ngăn chặn không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đi kèm với đó, quan trọng

  1.  Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Tổ quốc là một phạm trù lịch sử, gắn với những điều kiện chính trị, kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân là những vấn đề cơ bản về mặt chính trị – xã hội. Vì thế, vấn đề có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay là: bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

+ Mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù có chế độ chính trị khác nhau, nhưng chế độ chính trị đó đều gắn liền với lãnh thổ quốc gia và được quản lý bảo vệ theo pháp luật của quốc gia đó, được luật pháp, cộng đồng quốc tế công nhận về chủ quyền cũng như chế độ chính trị của quốc gia đó. Chủ quyền quốc gia và chế độ chính trị luôn gắn bó chặt chẽ, biện chứng với nhau. Trong chủ quyền quốc gia đã bao hàm những chủ quyền cơ bản là: quyền tối cao về lãnh thổ, trong đó các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, lập pháp, lập hiến, tư pháp, quyền độc lập trong chính sách ngoại giao.

       Đối với nước ta, về thực tiễn lịch sử, suốt 85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 1954, đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Đây không những là điều kiện tiên quyết để đất nước ta được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, nhân dân ta xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc mà còn là quy luật tồn tại phát triển của dân tộc ta. Do vậy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải gắn chặt bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ với bảo vệ Đảng và chế độ XHCN.

Điều này đòi hỏi trước hết phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ; Khắc phục tình trạng suy trhoái về đạo đức lối sống của CBĐV; xây dựng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, đủ sức điều hành và quản lý đất nước trong thời kỳ mới. Phải bảo vệ việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và  pháp luật của NN; Bảo vệ quan điểm về con đường đi lên CNXH của đất nước; Đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các âm mưu chống phá làm suy yếu chế độ của các LL thù địch…

+ Nhân dân lao động làm chủ là bản chất của chế độ ta, là thành tựu lớn nhất của cách mạng Việt Nam suốt bảy thập kỷ qua. Do đó, bảo vệ nhân dân trước tiên và mang tính quyết định là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, quyền tự do, quyền con người, quyền công dân, tính mạng, tài sản và lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ, bảo vệ cuộc sống bình yên của Nhân dân trước tác động tiêu cực của cuộc sống hiện nay.

+ Một nội dung rất quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới là bảo vệ chế độ XHCN. CNXH là con đường phát triển của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn của của dân tộc Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của lịch sử đất nước. Bảo vệ chế độ XHCN là bảo vệ thể chế chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền XHCN quản lý, Nhân dân Việt Nam làm chủ; Mặt khác kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện đổi mới vô nguyên tắc, đổi màu, biến chất, chệch định hướng XHCN.

  1. Bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nghề nông, đến nay đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước đáp ứng được cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và chuyển toàn bộ mọi hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền kinh tế có tư duy công nghiệp.

Những thành tựu của quá trình CNH, HĐH đưa đất nước ngày càng phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng. Với những thành quả đạt được đã tạo ra cho nước ta thế và lực lớn hơn nhiều so với trước. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Đây chính là những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh hơn tiến trình CNH, HĐH của đất nước, đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp.

Hiện nay, Đảng và NN đang tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế,  bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện.

Ngoài ra cần tăng cường nguồn lực đầu tư về CNH-HĐH cho quốc phòng, an ninh; quan tâm phát triển khoa học – công nghệ, nghệ thuật quân sự, an ninh, ứng dụng các thành tựu khoa học vào huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Mặt khác phải cảnh giác với những ý đồ, hành động ứng dụng CNH-HĐH chống phá, gây bất ổn kinh tế-chính trị – xã hội cho nền kinh tế Việt Nam tụt hậu xa hơn nữa, làm cho chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng kém, làm cho sự phân hóa, phân cực xã hội ngày càng tăng, làm cho môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm.

Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện đổi mới vô nguyên tắc, đổi màu, biến chất, chệch định hướng XHCN và những ý đồ, hành động làm cho nền kinh tế Việt Nam tụt hậu xa hơn nữa, làm cho chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng kém, làm cho sự phân hóa, phân cực xã hội ngày càng tăng, làm cho môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm. Đây thực chất là bảo vệ đường lối phát triển và xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, bảo vệ chủ trương chính sách về CNH-HĐ của Đảng và NN,

4/ Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc:

Lợi ích quốc gia dân tộc là toàn bộ lợi ích mà nhân dân ta có được, giành được, phát triển và giữ gìn trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh mới, nội hàm lợi ích quốc gia, dân tộc đã được mở rộng, bao gồm cả lợi ích của ta ở trong nước và ở ngoài nước, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nó bao gồm cả lợi ích tổng thể của quốc gia, đất nước và lợi ích cụ thể của các doanh nghiệp, của các cá nhân là người Việt Nam; lợi ích của chúng ta trong các doanh nghiệp nước ngoài có quan hệ hợp tác, đầu tư ở Việt Nam, với Việt Nam; quyền lợi, lợi ích của nước ta trong các tổ chức quốc tế và khu vực, trong các hiệp ước, cam kết quốc tế đa phương, song phương mà chúng ta tham gia, v.v.

Yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc đòi hỏi rất cao ý thức, trách nhiệm công dân, của các chủ thể, các lực lượng, đặc biệt là các lực lượng trực tiếp quan hệ, hợp tác với nước ngoài; kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện chỉ vì lợi ích cục bộ, địa phương, lợi ích riêng làm ảnh hưởng, vi phạm, phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.

Lợi ích quốc gia – dân tộc của chúng ta là cụ thể: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Trong tình hình hiện nay, lợi ích quốc gia – dân tộc đang đứng trước những nguy cơ, thách thức vô cùng to lớn, khó khăn. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hóa với tất cả sự phức tạp của thời cơ và nguy cơ, vận hội và thách thức đan xen, chuyển hóa khôn lường; sự tương quan lực lượng giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới thường xuyên thay đổi. hoặc là tụt hậu, tức là bị bỏ rơi hoặc là bứt phá, vươn lên để bắt nhịp cùng thời cuộc, làm chủ vận mệnh của mình, mà nếu dừng lại chính là tụt hậu.

      Nếu tụt hậu thì tất yếu khó tránh khỏi rơi vào lệ thuộc, sẽ không thể nào cải thiện, nâng cao được đời sống của nhân dân, khó có thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền của đất nước, khó có thể có được chỗ đứng xứng đáng trên trường quốc tế

Vì thế, trong những năm tới, chúng ta phải tập trung xử lý, tháo gỡ những cản trở, ách tắc, khắc phục những hạn chế, yếu kém, nhanh chóng  phục hồi lại đà tăng trưởng kinh tế; tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đầy sáng tạo và hiệu quả; Bảo vệ việc thực hiện 03 khâu đột phá chiến lược trong việc  phát triển KT-XH do Đảng và NN đề ra; Bảo vệ lợi ích QG&DT trước những thách thức về tình hình biển  đảo hiện nay và  trên nhiều phương diện  hoạt động trong nước và ngoài nước. Hoàn thành tốt nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng để tạo ra một trình độ mới, cao hơn cho nền kinh tế đất nước, ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực.

5/   Bảo vệ ANCT, TTATXH và nền văn hóa dân tộc:

          Đây là mục tiêu phải thực hiện để đảm bảo việc phát triển đúng định hướng XHCN của nước ta.  An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước, là sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. An ninh quốc gia bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hoá, xã hội, quốc phòng, đối ngoại… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt.

         Bảo vệ nền văn hóa dân tộc là bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần, nền tảng tư tưởng của xã hội; chống sự xâm nhập của mọi trào lưu tư tưởng phi vô sản và sự ảnh hưởng của văn hóa độc hại vào đời sống xã hội.

         Đồng thời, phải ra sức xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; không ngừng quảng bá, phát huy các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên thế giới, góp phần gia tăng “sức mạnh mềm” cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.

        Hiện nay đang có những thách thức đối với việc bảo vệ ANCT, TTATXH và văn hóa dân tộc. Về ANCT thì có nhiều phần tử trong nước, tổ chức phản động ở bên ngoài (Đảng Việt Tân, Đảng Dân chủ….) âm mưu gây chia rẻ đất nước, làm mất uy tín củ Đảng Và NN. Các loại tội phạm gia tăng, tính chất manh động ngày càng cao hơn gây bất ổn xcho trật tự Xã hội; Các hoạt động văn hóa ngày càng bị thương mại hóa nhiều hơn và đang có nguy cơ đi chệch hướng.

        Để đảm bảo thực hiện mục tiêu bảo vệ ANCT, TTATXH và nền văn hóa dân tộc, cần kiên quyết và kịp thời đập an các âm mưu phá hoạt của các LL thù địch; Trấn áp và kéo giảm các hoạt động phi pháp; Bảo tồn và phát triển các đặc điểm yếu tố làm nên Bản sắc văn hóa dân tộc.         i

     6/ Giữ vững môi ổn định chính trị, trường hòa bình:

           Đây là nội dung rất quan trọng của mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời, là yếu tố rất cơ bản bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

         Trong bối cảnh mới, nội dung này càng đặt ra một cách cấp thiết. Đó là việc giữ vững môi trường hòa bình, kiên định đường lối phát triển, bảo đảm sự nhất quán của các chủ trương, chính sách; không có xáo trộn, biến động về chính trị, đặc biệt là trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước gây ảnh hưởng xấu, tiêu cực đến sự phát triển đất nước.

        Cần đặc biệt chú ý giữ vững môi trường hòa bình, ổn định hiện nay; không để xảy ra vấn đề phức tạp trong quan hệ với các nước láng giềng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo đảm môi trường hòa bình cho sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.

      Các nội dung của chiến lược bảo vệ Tổ quốc nêu trêm đã phản ánh toàn diện các yếu tố về mặt tự nhiên – lịch sử, chính trị – xã hội của đất nước, bao gồm những giá trị bên trong và những lợi ích bên ngoài; giá trị quá khứ, hiện tại và cả tương lai phát triển; giá trị quốc gia dân tộc, đất nước, chế độ xã hội và giá trị của con người Việt Nam,…trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Các nội dung bảo vệ quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau trong chỉnh thể thống nhất, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa nội dung nào.

         Nhìn chung:  Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc hiện nay là gắn bó chặt chẽ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ mọi lợi ích quốc gia, dân tộc. Đây là quan điểm toàn diện, phản ánh tư duy mới của Đảng,  tư duy khoa học gắn chặt lý luận với thực tiễn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây không những là điều kiện tiên quyết để đất nước ta được sống trong hòa bình, độc lập, tự do mà còn là nguyên tắc bất biến, là quy luật tồn tại phát triển của dân tộc ta. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, phải chăm lo xây dựng Đảng, chăm lo xây dựng phát triển kinh tế bền vững, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân hùng mạnh, mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường luật pháp quốc gia… để đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

        Bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới có nội hàm rất quan trọng là bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước. Đó là bảo vệ, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, để Đảng ta mãi mãi là Đảng của trí tuệ, có uy tín đạo đức cao và gắn bó máu thịt với nhân dân; bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng; bảo vệ bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nhà nước pháp quyền XHCN.

        Sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất. Tiếp tục phát triển quan điểm Đại hội lần thứ X, Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

       Sức mạnh của nhân dân là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.

Liên hệ thực tế:

-Tuyên truyền vận động nhân cao nhận thức cho mọi người về độc lập – chủ quyền quốc gia dân tộc. (bản tin cơ quan, hội nghị, hội thảo, sinh hoạt chuyên đề….)

       -Tham gia các phong trào ủng hộ Biển đảo, ủng hộ Trường Sa

          Cần kiên quyết đấu tranh, phê phán và chống lại những biểu hiện xa rời dân, quan liêu, mệnh lệnh, tham ô lãng phí, lười học tập, không có tinh thần cố gắng vươn lên trong một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay, gây mất đoàn kết nội bộ, xem thường tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, nói nhiều làm ít, không chấp hành và thực hiện đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền.

Phải làm thật tốt công việc của mình, bản thân phải không ngừng trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thông qua việc tham dự các khóa đào tạo về chuyên môn do cơ quan tổ chức, và học hỏi kinh nghiệm của các anh chị đi trước đồng thời tích cực học hỏi, nghiên cứu các chế độ, chính sách phục vụ cho công tác chuyên môn, cố gắng nắm bắt, cập nhật kịp thời, đầy đủ những đổi mới trong công việc và vận dụng vào thực tiễn, nhằm đảm bảo giải quyết công việc một cách chính xác theo đúng chế độ, quy định và loại bỏ những chi phí bất hợp lý để tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; cải tiến phương pháp làm việc, chủ động, xây dựng kế hoạch làm việc rõ ràng, cụ thể; rèn luyện lối làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm; tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho khách hàng và hoàn thành công việc nhanh chóng, chính xác, đúng qui định; không quan liêu, hách dịch, không gây khó dễ, phiền hà cho nhân dân.

Câu 2 :  Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

        Ngày 25-10-2013, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.  Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đề ra nhiều nội dung rất quan trọng về mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp làm cơ sở chỉ đạo cho các cấp, các ngành tổ chức quán triệt trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Nội dung các quan điểm như sau:

1/ Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

        Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp BVTQ. Với quan điểm này, Đảng ta tiếp tục khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh từ trung ương đến cơ sở, mọi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh diễn ra ở đâu, thời điểm nào đều phải đặt dưới sự lãn h đạo của Đảng. Đảng cũng xác định các yếu tố tạo thành nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là vai trò vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

       Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần phải được coi trọng. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ XHCN ở nước ta.

       Phải kiên định nhất quán, không thay đổi trong mọi hoàn cảnh giữ vưng lập trường quan điểm:

Giữ môi trường hoàn bình để phát triển nền KT-XH của đất nước. Mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, của các tổ chức đều phải giữ vững mội trường hòa bình.

Thường xuyên cảnh gíc, phát hiện kịp thời những âm mưuchống phá, xâm lưc để chủ động phòng ngừa

2/ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển k inh tế, xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đồng thời, luôn nêu cao cảnh giác, đánh bại mọi âm mưu, hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, khô ng để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

          Trong lịch sử xã hội loài người, thời đại nào cũng vậy, dân tộc bao giờ cũng gắn liền với một chế độ chính trị nhất định; trong đó, dân tộc có quyền lựa chọn cho mình một chế độ chính trị nhất định, chế độ chính trị phù hợp thì tồn tại, phát triển và được bảo vệ.

          Đối với dân tộc ta, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn giương cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc và CNXH và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chỉ có kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nước ta mới có độc lập dân tộc thực sự và sự thực trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, CNXH đã thể hiện được tính ưu việt của nó, mặc dù mô hình này chưa có tiền lệ trong thực tiễn và cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.

         Quan điểm này xác định rõ trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào vẫn không thay đổi mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bảo vệ Tổ quốc phải đi liền với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

       Việc đảm bảo hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xã hội. là lợi ích cao nhất của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tất cả mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong bối cảnh hiện nay đều phải phục vụ cho lợi ích này. bất luận trong hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

3/ Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nội lực đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

         Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất.

        Bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, cần phát huy sức mạnh của dân tộc được kết tinh trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống yêu nước, tinh thần anh dũng, sự sáng tạo, mềm dẽo… của nhân dân ta. Tạo dựng cho được sức mạnh từ bên trong và xem yếu tố nội lực là quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

        Bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta cũng phải luôn chú ý khai thác yếu tố thời đại và những điều kiện thuận lợi từ bên ngoài. Đó là dư luận của nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hòa bình, cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ của các dân tộc cho tự trật tự thế giới bình đẳng, dân chủ, hợp tác và phát triển. Đó còn là sự ủng hộ của các nước cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

     Hai nhiệm vụ này luôn đi liền với nhau, không tách rời nhau. Nhiệm vụ xây dựng CNXH là nền tảng để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là điều kiện để chúng ta thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH, chúng có mối tác động qua lại, bổ sung cho nhau.

     Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại để bảo vệ tổ quốc: sức mạnh của dân tộc kết tinh trong truyền thống đấu tranh giữ nước, truyền thống yêu nước, tự lực tự cường… chưa bao giờ khuất phục trước 1 kẻ thù nào, đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Bên cạnh đó cần kết hợp với sức mạnh thời đại: Hòa bình, hợp tác, phát triển…

       Phát triển nội lực, tranh thủ tối đa, khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài: Phát triển tổng thể những yếu tố tạo thành nội lực(kinh tế là trọng tâm, xây dựng đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần).Tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài : Dư luận yêu chuộng hòa bình trên thế giới  luôn ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta vì vậy chúng ta cần phải tranh thủ sự ủng hộ,hỗ trợ từ bên ngoài.

      Để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.

      Đảng ta đã không ngừng phát triển, hoàn thiện tư duy, nhận thức của mình về BVTQ trong điều kiện mới; trong đó, giữ nước phải được thực hiện ngay từ thời bình là một trong những quan điểm cơ bản.

       BVTQ không chỉ bảo vệ về mặt địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị BVTQ ngay khi đất nước đang hòa bình và phát triển; thực hiện ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh. Đồng thời, không coi nhẹ vấn đề tự bảo vệ và phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến thẳnh lên hiện đại” để BVTQ. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật.

      Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.

4/ Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản l., điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.

         Bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới cần phải có sức mạnh tổng hợp của tất cả các lĩnh vực, bởi lẽ mỗi lĩnh vực đều có đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của đất nước. Bảo vệ Tổ quốc hiện nay cần huy động sự tham gia đông đảo của mọi người, phải đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam trong và ngoài nước. Có sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như vậy chúng ta sẽ thành công trong sư nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

         Để có sức mạnh bảo vệ Tổ quốc còn cần phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân phù hợp với tình hình hiện nay. Đó là xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ, tiềm lực quân sự – an ninh. Đồng thời sắp xếp, bố trí, huấn luyện để toàn dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế – xã hội, văn hóa, QP- AN: Bảo vệ tổ quốc trong tình hình hiện nay phải trên tinh thần sức mạnh của tất cả các lĩnh vực. Vì từng lĩnh vực đều có đóng góp cho sự nghiệp các lĩnh vực. Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng.

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt: Đoàn kết giữa các giai cấp, các tầng lớp, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết giữa người Việt Nam trong nước với người VN ở nước ngoài.

Tăng cường tiềm lực AN – QP, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân phù hợp vớ hoàn cảnh mới: Khả năng về vật chất, tinh thần của đất nước mà chúng ta có thể phục vụ cho AN – QP.  Tiềm lực trên 4 phương diện:

*Tiềm lực về chính trị – tinh thần

*Tiềm lực về kinh tế – xã hội

* Tiềm lực về khoa học – công nghệ

* Tiềm lực về quân sự – An ninh

Xây dựng Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân: Sắp xếp, bố trí để toàn dân tham gia thế trận quốc phòng và tham gia thế trận an ninh.

5/ Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác

         Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay cần thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì mộ t nước Việt Nam XHCN giàu mạnh.

        Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn trong việc việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác.  Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

       Xây dựng đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tự mình quyết định, không để bị lệ thuộc, vừa hợp tác, vừa đấu tranh nhưng gia tăng hợp tác, tìm mọi cơ hội để hợp tác.

        Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc”.

6/ Chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.

        Thực hiện bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay cần chú trọng đúng mức đến công tác phòng ngừa. Đó là phải làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện và khắc phục kịp thời những sở hở, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý trên tất cả các lĩnh vực, trong những vấn đề mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng và dễ dàng lợi dụng để chống phá chính quyền, gây mất ổn đinh xã hội.

Câu 3 : Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng về kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.

Phát triển kinh tế xã hội: Là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.

  1. Quốc phòng: Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội… nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
  2. Khái niệm An ninh: An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm để đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Đối với Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt; bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng

        4.Kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh: là hoạt động chủ quan của nhà nước trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan mà gắn kết chặt chẽ các hoạt động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh nhằm bổ sung, tạo điều kiện cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển nhịp nhàng.

  1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp:

   Cơ sở lý luận:

–   Chủ nghĩa Mác – Lê nin: KInh tế và QP, AN luôn có mối quan hệ biện chứng. Trong đó, kinh tế giữ vai trò quyết định, QP- AN chịu sự chi phối và phụ thuộc vào kinh tế nhưng cũng có tác động tích cực trở lại đoố với kinh tế, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát triển.

–  Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường QP – AN về thực chất là cụ thể hóa việc quán triệt và thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.

  Cơ sở thực tiễn:

– Phát triển kinh tế – xã hội gắn với QP- AN đã trở thành quy luật phổ biến ở mọi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền.

– Ở nước ta, phát triển kinh tế – xã hội gắn với QP – AN là một tất yếu khách quan, có tính quy luật, là một truyền thống trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

      Mục tiêu tổng quát của việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại là tạo môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi cho phát triển kinh tế. Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng từng bước hiện đại, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị vũ khí, kỹ thuật ngày càng hiện đại.

      Trên cơ sở chiến lược chung và chiến lược từng vùng lãnh thổ, từng địa phương mà kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; từng bước hình thành các vùng chiến lược kinh tế – quốc phòng – an ninh, vừa có kinh tế mạnh, vừa có quốc phòng – an ninh mạnh, nhất là ở các địa bàn xung yếu về quốc phòng – an ninh; tăng cường được khả năng phòng thủ ở vùng biển đảo và vùng biên giới.

        Bảo đảm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh, ổn định và bền vững, vừa có khả năng tự bảo vệ và được bảo vệ một cách vững chắc; vừa có khả năng và luôn ở tư thế sẵn sàng cao nhất về kinh tế bảo đảm cho quốc phòng – an ninh trong mọi tình huống. Đồng thời, trong quá trình xây dựng tiềm lực quốc phòng – an ninh phải lấy yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế làm mục đích, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.

Các mục tiêu cụ thể:

-Thứ nhất, kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả cao nhất nguồn lực tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.

Mọi hoạt động kinh tế – xã hội phải quán triệt quan điểm đã được xác định, đó là, phát triển kinh tế – xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên quyết đấu tranh và khắc phục mọi khuynh hướng chỉ chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, không chú trọng đến mặt củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, mất cảnh giác trong quan hệ đối ngoại.

–  Thứ hai, kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh và đối ngoại nhằm bảo đảm cho kinh tế – xã hội phát triển ổn định, nhanh và bền vững.

   Cần đẩy lùi và xoá bỏ các nhân tố mất ổn định bắt nguồn từ kinh tế; thông qua các hoạt động kinh tế – xã hội mà làm thất bại các mưu toan gây rối và “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; giải quyết từng bước, có xác định thứ tự ưu tiên thích hợp trong việc kinh tế đảm bảo cho quốc phòng – an ninh. Từng cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, loại hình sở hữu phải đạt được lợi ích kinh tế cao, vừa thực hiện đầy đủ yêu cầu ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo ra thế trận vững chắc của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đủ sức ngăn chặn và đẩy lùi mọi nhân tố gây mất ổn định.

–   Thứ ba, kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại nhằm xây dựng, củng cố quốc phòng – an ninh.

     Các địa phương, các địa bàn chiến lược phải được xây dựng theo mô hình đã được xác định, được củng cố và không ngừng hoàn thiện, thật sự là khu vực phòng thủ có cơ sở kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh vững chắc; nhất là các vùng trọng điểm: các vùng ven biển và hải đảo, các vùng biên giới, các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, các vùng dân tộc ít người và tôn giáo.

– Thứ tư, kết hợp kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại phải tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.

Tất cả các tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại đều là tiềm lực tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; do vậy, mỗi bước phát triển kinh tế – xã hội phải là một bước nâng cao sức mạnh giữ nước, củng cố quốc phòng – an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.

– Thứ năm, khoa học công nghệ của đất nước phải được định hướng đúng đắn và tổ chức hoạt động có hiệu quả, đủ sức đáp ứng các nhu cầu hiện đại hoá nền kinh tế; đồng thời, cải tiến, đổi mới, đồng bộ hóa trang bị kỹ thuật quân sự, trang bị kỹ thuật công an, khắc phục tình trạng xuống cấp, mất cân đối về trang bị kỹ thuật của quân đội và công an.

  1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng:

+ phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh phải toàn diện, cơ bản, lâu dài ngay từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng ngành và ở từng địa phương:

+ phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh phải tập trung có trọng điểm, quan tâm đầu tư vào những vùng, địa bàn chiến lược trọng yếu (vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ), những ngành, những lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.

***Những địa bàn trọng yếu đó là:

+, Vùng kinh tế trọng điểm: Phía Bắc, Miền trung, phía Nam

+, Vùng rừng núi

+, Vùng biên giới

+, Vùng hải đảo

Đảng và Nhà nước phải đảm bảo có lực lượng, chính sách đồng bộ để khuyến khích người dân tham gia phát triển kinh tế – xã hội để có lực lượng bảo vệ biên giới, hải đảo.

+ Phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh thời bình phải có phương án, kế hoạch sẵn sàng điều chỉnh thích ứng với mọi tình huống bất trắc xảy ra hạn chế tổn thất, thiệt hại do thiên tai, địch họa xảy ra.

Khi có chiến tranh xảy ra: Các công trình kinh tế chúng ta xây dựng ở bờ biển, biên giới, hải đảo trở thành những công trình đáp ứng được các yêu cầu của thời chiến.

+ Phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh là sự nghiệp của toàn dân, của mọi ngành, mọi cấp, mọi thành phần kinh tế do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, với một hệ thống cơ quan tham mưu có năng lực, trách nhiệm tốt và với một hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, phù hợp trong thời kỳ mới. Đây chính là nhiệm vụ của toàn dân, đòi hỏi tất cả mọi người dân, mọi ngành, mọi cấp cần chăm lo.

         + Chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ: quốc gia giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mớic hính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN, giữa phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng bước QHSX XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, v.v… 

Câu 4. Phân tích tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ trong Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm.

 Khái niệm tội phạm:

          Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm các lợi ích khác của trật tự pháp luật”.

Khái niệm phòng chống tội phạm:

          Phòng chống tội phạm là quá trình sử dụng biện pháp, chiến lược, sách lược, phương tiện cần thiết với sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội nhằm không để tội phạm xảy ra, hạn chế, ngăn chặn, xử lí, làm giảm tội phạm và quản lí giáo dục, cải tạo người phạm tội.

Mục tiêu:

– Khắc phục một bước căn bản, vững chắc nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, tồn tại, phát triển của các loại tội phạm, trước hết là các nguyên nhân, điều kiện do những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; kiềm chế sự gia tăng của một số loại tội nguy hiểm, từng bước làm giảm tình hình tội phạm, trước hết trên các tuyến, ở các địa bàn trọng điểm.

– Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, huy động mọi nguồn lực xã hội vào công tác phòng, chống tội phạm.

– Nâng cao một bước căn bản năng lực hoạt động của lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm, đủ sức đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Thực trạng phòng chống tội phạm:

– Trong những năm qua, các ngành, các cấp do các lực lượng chuyên trách làm nòng cốt đã triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm, thu được nhiều kết quả quan trọng. Hàng chục nghìn băng nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm, đường dây mua bán vận chuyển ma túy đã được triệt phá, bóc gỡ; nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được phát hiện, điều tra, xử lý; hoạt động của tội phạm có tổ chức và băng nhóm tội phạm hình sự mang tính chất “xã hội đen” đã được ngăn chặn; tình hình tội phạm ở các thành phố lớn, trên các tuyến, địa bàn trọng điểm cơ bản được kiềm chế. Đạt được những kết quả trên là do đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức mạnh tổng hợp của xã hội và sự cố gắng, nỗ lực của các lực lượng chuyên trách.

       Mặc dù vậy, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp. Nhiều loại tội phạm nghiêm trọng chưa được kiềm chế. Tham nhũng và tội phạm tham nhũng vẫn hết sức nhức nhối, trở thành một trong những mối đe dọa trực tiếp sự tồn vong của chế độ. Tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế của đất nước, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của người dân và sức khỏe cộng đồng. Tội phạm có tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm sử dụng công nghệ cao đang là một thách thức lớn.

      Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm trọng trật tự, kỷ cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm niềm tin xã hội và cản trở công cuộc phát triển đất nước.

      Dự báo trong giai đoạn tới, tình hình tội phạm ở Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm nghiêm trọng có xu hướng tăng. Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ chức, xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm do suy thoái đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa của xã hội.

          Tư tưởng chỉ đạo của chính phủ trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm:

Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực lượng chuyên trách làm nòng cốt.

Chiến lược phòng, chống tội phạm là một nội dung quan trọng, bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước, các đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường xã hội ổn định, lành mạnh phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, đối ngoại của đất nước.

Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức – hành chính, kinh tế – xã hội, pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp, lấy phòng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt động phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

          Công tác phòng, chống tội phạm là nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức xã hội và mọi công dân. Do đó cần phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư

          + Địa bàn dân cư là nơi dễ phát hiện tội phạm nhất, chính quyền cơ sở cùng quần chúng nhân dân chính là bộ phận quan trọng tham gia có hiệu quả vào công tác giữ gìn trật tự ở cơ sở, đấu tranh phòng chống tội phạm.

+ Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đến từng người dân thông qua các buổi sinh hoạt, hội họp của từng ban ngành, đoàn thể. Phối hợp xây dựng kế hoạch tuần tra, giám sát trong những dịp lễ, tết và các sự kiện lớn của địa phương.

+ Nêu cao ý thức về phòng chống, tố giác tội phạm của nhân dân, chăm lo, giáo dục con em của địa phương không dính vào các tệ nạn xã hội, đẩy mạnh công tác tuyên truyền học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh… Vận động các tổ chức đoàn thể và nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, chú ý đến các đối tượng từ nơi khác đến địa phương cư trú, nêu cao cảnh giác với các đối tượng khả nghi, các tụ điểm đông người.

Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của Nhà nước trong đấu tranh, phòng chống tội phạm.

         Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức quần chúng và nhân dân đã tích cực tham gia vào công tác phòng, chống tội phạm, thu được những kết quả quan trọng. Do đó, tội phạm từng bước được kiềm chế, một số loại tội phạm có xu hướng giảm, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

+ Cần có những đường lối, chủ trương, chính sách phảo phù hợp với từng giai đoạn, cấp ủy Đảng cần quan tâm đến sự lãnh đạo của công tác phòng chống tội phạm.

+ Nhà nước phải kiện toàn, bổ sung các văn bản, các quy phạm pháp luật về phòng, chống tội phạm. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tội phạm. Trước hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm và một số đạo luật có liên quan.

+ Đấu tranh kịp thời các hoạt động phạm tội, xử lí đúng người, đúng tội.

Gắn liền phòng ngừa với đấu tranh trong đó phòng ngừa là cơ bản, đặc biệt là phòng ngừa xã hội, đấu tranh trấn áp tội phạm là quan trọng.

+ Quan điểm không để tội phạm xảy ra mà phòng ngừa, ngăn chặn là cơ bản.

+ Kịp thời xử lí, đấu tranh trấn áp tội phạm: Xử lí đúng người, đúng tội, đúng chính sách pháp luật, tránh oan sai, phức tạp.

Câu 5: Phân tích mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, nhiệm vụ trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng. 

         Ñöôøng loái ñoái ngoaïi laø moät boä phaän hôïp thaønh ñöôøng loái chung cuûa caùch maïng VN.  Laø söï tieáp tuïc chính saùch ñoái noäi, goùp phaàn thöïc hieän thaéng lôïi muïc tieâu, nhieäm vuï cuûa caùch maïng. Nhaèm tranh thuû toái ña nguoàn ngoaïi löïc, keát hôïp söùc maïnh daân toäc vôùi söùc maïnh thôøi ñaïi, phuïc vuï söï nghieäp xaây döïng vaø baûo veä Toå quoác.

         Vị trí, vai trò của chính sách đối ngoại:

  Chính sách đối ngoại có vai trò chủ động tạo ra mối quan hệ quốc tế thuận lợi để đưa nước ta hội nhập với thế giới nhằm góp phần tạo ra điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.

         Chính sách đối ngoại có vị trí quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vẹ tổ quốc, trong thời đại hiện nay mở rộng quan hệ ngoại giao là vấn đề sống còn của mỗi dân tộc.

Chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại là quan hệ tất yếu khách quan vì ngày nay không có quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có quan hệ với thế giới bên ngoài.

        Muốn có một chính sách đối ngoại đúng đắn để phát triển kinh tế xã hội và trở thành một nước phát triển trên thế giới mổi nhà, cần có một tư duy linh hoạt nhạy bén lắm bắt chính xác kịp thời tình hình quốc tế vào trong nước thay đổi các chính sách đối ngoại  cho đúng đắn.

          I/ Mục tiêu đối ngoại:

Trong thời kỳ đổi mới, việc xác định mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời quan tâm đúng mức đến nghĩa vụ quốc tế của Đảng với tư cách một đảng cộng sản cầm quyền. Đối với Việt Nam hiện nay, lợi ích quốc gia dân tộc cơ bản và cao nhất về đối ngoại là giữ vững hòa bình để phát triển. Do đó, mục tiêu đối ngoại là phải tạo lập được môi trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

        Chính sách đối ngoại được Đảng ta hoạch định và triển khai trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đảng đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại.

          Giữ vững hòa bình, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia, mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ, hợp tác của quốc tế cho sự phát triển của đất nước. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam nâng cao uy tín quốc tế, đồng thời đóng góp nhiều hơn đối với phong trào cách mạng thế giới.

 II/ Tư tưởng chỉ đạo:

          Xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối ngoại đã được xác định, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ.

          Đại hội XI của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Mặt khác, thực hiện chủ trương đối ngoại như trên, Việt Nam có thể tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài như: vốn đầu tư, khoa học – công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, phục vu cho xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ tổ quốc.

III/ Nguyên tắc đối ngoại:

Đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu. Cụ thể hóa nguyên tắc này, Đảng và Nhà nước Việt Nam nêu 4 nguyên tắc đối ngoại chủ yếu:

+ Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

+ Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

+ Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng, đối thoại hòa bình.

+ Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam xác định rõ cơ sở của sự hợp tác là hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.

IV/ Nhiệm vụ đối ngoại:

        Trong suốt thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định một cách nhất quán nhiệm vụ đối ngoại, mà nội dung cơ bản của nó tiếp tục được khẳng định lại trong văn kiện Đại hội XI là: “Giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Đại hội XI cũng nêu rõ một số nhiệm vụ cụ thể trong công tác đối ngoại:

– Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa ra các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu toàn diện, ổn định bền vững.

– Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế.

– Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến.

– Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc.

– Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.

– Chủ động tăng cường hợp tác quốc tế và quốc phòng an ninh.

– Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹ lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.

       Về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.

      Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của một quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước./.