Vladimir llyich Lenin (V.I. Lênin) là một trong những nhân vật quan trọng và có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX. Ông là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận chính trị kiệt xuất, lãnh tụ lỗi lạc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Những tư tưởng của ông có giá trị trường tồn và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phong trào cách mạng thế giới và sự phát triển của lịch sử loài người, trong đó có quan điểm về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Theo ông, quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. Việc quán triệt quan điểm đó của Lênin đóng vai trò quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. V.I. Lênin (22/4/1870 - 21/01/1924) là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, đã lãnh đạo nhân dân Nga tiến hành Cách mạng Tháng Mười, thành lập Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Ông là người phát triển học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen thành công, trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Là một nhà lý luận chính trị lỗi lạc, ông đã để lại nhiều tác phẩm triết học có giá trị, trong đó có: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán; Bút ký triết học; Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và những sai lầm của các đồng chí Trotsky và Bukharin... Vấn đề được đặt ra trong bài viết chủ yếu dựa trên sự phân tích ba tác phẩm đó. 2 Sự khái quát thực tiễn để tạo nên các khái niệm, phạm trù phải trải qua một quá trình lâu dài, phức tạp, dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa logic và lịch sử. Nói cách khác, thứ tự xuất hiện các phạm trù trong hệ thống phạm trù mà hiện nay triết học và các khoa học đang có là thứ tự có tính logic, tính quy luật phát triển nội tại của sự phát triển tư duy nhân loại. Vậy bản chất của quy luật đó là gì? Chúng ta có thể tiếp cận vấn đề này dựa trên luận điểm của Lênin: “Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con người bản năng, người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững được màng lưới”7. Theo quan điểm này, khái niệm, phạm trù và quy luật không phải là kết quả sáng tạo của tư duy thuần túy, chúng là kết quả hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo giới tự nhiên để phục vụ mục đích mưu sinh của mình. Những điểm nút mà Lênin đề cập tới vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa có ý nghĩa lý luận. Ý nghĩa thực tiễn thể hiện ở chỗ, nếu thực tiễn của con người càng phong phú, đa dạng, sâu sắc và hoàn thiện thì con người càng có khả năng phát hiện, vạch rõ mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng, do đó càng có khả năng thiết lập những khái niệm, phạm trù mới có ngoại diên rộng hơn, nội hàm sâu hơn so với những khái niệm, phạm trù mà con người đã có trước đó. Ý nghĩa lý luận thể hiện ở chỗ, các phạm trù là chỗ dựa, là công cụ và phương tiện để nhận thức. Nhờ có chúng mà con người có thể tiếp cận và nhận thức thế giới một cách gián tiếp, bao quát được các sự vật, hiện tượng trong thế giới một cách thống nhất, nắm được bản chất của đối tượng trong sự vận động, biến đổi không ngừng. Với nghĩa đó, Lênin cho rằng, muốn nhận thức được sự vật thì phải làm “chết cứng cái đang sống” hoặc “bóp chết” tạm thời sự vật, sự xuất hiện các khái niệm, phạm trù là thời điểm con người làm “chết cứng cái đang sống”, hay “bóp chết” tạm thời sự vật đó. Nhìn nhận vấn đề từ thực tế, khi người nguyên thủy bước những bước đi đầu tiên trên con đường chinh phục tự nhiên, họ nhận thức thế giới bằng tri giác cảm tính nhiều hơn là bằng tư duy trừu tượng. Con người trong các thế hệ sau đã dần tách khỏi giới tự nhiên, không lệ thuộc và phục tùng tự nhiên một cách mù quáng, không thích ứng với nó một cách bản năng - tất yếu, mà con người tích cực chủ động nhận thức và cải tạo giới tự nhiên, nhằm phục vụ các mục đích mưu sinh của mình. Song, để nắm bắt được quy luật vận động và bản chất của giới tự nhiên, con người cần phải được trang bị một hệ thống các khái niệm, phạm trù. Theo nghĩa đó, Lênin cho rằng, phạm trù là những trình độ tách rời hay là trình độ nhận thức thế giới, chúng là những điểm nút trong “màng lưới trừu tượng” mà con người bao phủ lên thế giới để nhận thức “màng lưới hiện thực” của thế giới, nghĩa là việc nhận thức các sự vật, hiện tượng đang diễn ra một cách sinh động trong thực tế. Ví dụ, nhờ nắm bắt được quy luật sinh thành (lấy hai hòn đá ghè vào nhau) và bản chất (cung cấp nhiệt) của “lửa” mà con người có thể sử dụng vào việc nấu chín thức ăn, sưởi ấm, đốt nương làm rẫy và đúc rèn kim loại để chế tạo ra các công cụ lao động. Từ đó, lửa mất đi tính huyền thoại (huyền thoại Thần Prometheus đánh cắp lửa trên thượng giới đem xuống trần gian cho loài người) và vai trò bái vật giáo (Totemism, Fetishism) để trở thành một trong những yếu tố quan trọng và vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Hay khi con người đã biết đắp đập, đào mương thì Sơn tinh, Thủy tinh cũng trở thành huyền thoại, thay vào đó là các nhà máy thủy điện, các hồ chứa nước nhân tạo. Như vậy, khi tư duy trừu tượng của con người phát triển đến điểm cao, cùng với sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật, con người đi sâu khám phá bản chất của vật chất, phát hiện ra cấu trúc dưới nguyên tử của nó, tạo nên các khoa học như: cơ học lượng tử, sinh học phân tử, công nghệ Nano. Những ví dụ trên chứng minh rằng, con người có thể khám phá được mọi “bí mật” của giới tự nhiên nếu con người được trang bị tư duy trừu tượng mà cụ thể là các khái niệm, phạm trù. Theo nguyên tắc “chân lý là một quá trình”, con người sẽ “gỡ” dần những mắt lưới của màng lưới giới tự nhiên để đi sâu khám phá nó, từ đó đề xuất những phương án và thái độ ứng xử phù hợp với giới tự nhiên. 3 Không chỉ dừng lại ở việc vạch ra nguồn gốc của các khái niệm, phạm trù, để chống lại quan niệm siêu hình về tính chất tĩnh tại của chúng, Lênin đã đưa ra luận điểm về tính năng động mềm dẻo và sự chuyển hóa lẫn nhau của các phạm trù. Những phát minh vĩ đại trong vật lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tạo nên cuộc khủng hoảng trong vật lý học mà hệ quả là đã làm phát sinh chủ nghĩa duy tâm vật lý với quan điểm vật chất biến mất, vật chất tiêu tan. Vận dụng tài tình phép biện chứng khái niệm, Lênin đã phê phán những tư tưởng sai lầm và luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa duy vật mácxít của trường phái triết học đó. Theo Lênin, nhận thức con người là một quá trình đi sâu vô hạn vào việc khám phá cấu trúc vật chất, làm cho những giới hạn hiểu biết cũ của con người về vật chất bị vượt qua để đạt tới những hiểu biết mới. “Vật chất đang tiêu tan”, điều đó có nghĩa là giới hạn hiểu biết vật chất cho đến nay của chúng ta đang tiêu tan, tri thức của chúng ta trở nên sâu sắc hơn; những đặc tính của vật chất, trước đây được coi là tuyệt đối, bất biến, đầu tiên (tính không thể thâm nhập được, quán tính, khối lượng, v.v.) đang tiêu tan và bây giờ đây tỏ ra là tương đối và chỉ là đặc tính vốn có của một số trạng thái nào đó của vật chất”8. Như vậy, theo Lênin, cuộc khủng hoảng trong vật lý học hiện đại không phải là khủng hoảng trên phương diện thực tiễn, mà là trên phương diện nhận thức của những nhà khoa học giỏi chuyên môn (vật lý) nhưng lại không hiểu phép biện chứng khái niệm. Ông cho rằng, trên thực tế, vật lý học hiện đại đã “đẻ” ra chủ nghĩa duy vật biện chứng - một “sinh vật sống” và kèm theo nó là một vài “sản phẩm chết”, một vài thứ “cặn bã” - một trong những “cặn bã” đó là chủ nghĩa duy tâm vật lý, mà điển hình là chủ nghĩa Mach. Trong cuộc bút chiến với các phần tử chiết trung, ngụy biện (Tơrốtxki, Bukharin, Dinôviép, v.v.) về vấn đề công đoàn, Lênin đã lấy tính năng động, mềm dẻo của khái niệm “cái cốc” làm ví dụ9. Cũng như muôn vàn sự vật khác, cái cốc nằm trong màng lưới phức tạp những mối liên hệ với thế giới xung quanh. Trong hoàn cảnh này, cái cốc có thể là một vật dùng để uống nước, nhưng khi hoàn cảnh thay đổi, nó có thể dùng để nhốt con bướm hay để chặn giấy, lúc đó khái niệm về cái cốc cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Nói cách khác, nếu vận dụng những khái niệm, phạm trù không thay đổi vào trong những hoàn cảnh thay đổi thì dễ rơi vào chủ nghĩa chiết trung, thuật ngụy biện, tư duy theo lối logic hình thức (A chỉ là A, mà không thể là một cái gì khác nó). Về sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các khái niệm, phạm trù, Lênin viết: “Mỗi một khái niệm nằm trong một mối quan hệ nào đó… với tất cả các khái niệm khác… sự phụ thuộc lẫn nhau của tất thảy mọi khái niệm không trừ khái niệm nào, sự chuyển hóa của những khái niệm từ cái này sang cái kia… Tính tương đối của sự đối lập giữa các khái niệm”10. Sở dĩ có điều này là bởi theo phép biện chứng khái niệm, mỗi khái niệm, phạm trù cũng như tất cả các khái niệm, phạm trù tựu trung lại đều phản ánh sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nhờ đó, con người mới nhận thức được thế giới khách quan nói chung và đối tượng nói riêng như một chỉnh thể, đồng thời nắm bắt quy luật vận động và bản chất của chúng. Lênin cho rằng “Những khái niệm, coi là bản tổng kê những mặt riêng biệt của vận động”11. Song, mỗi khái niệm, phạm trù riêng biệt cũng chỉ thực hiện chức năng ghi nhận, phản ánh một phương diện, một mối quan hệ nào đó của thế giới, vì vậy, khi muốn tìm hiểu hay định nghĩa một khái niệm, phạm trù, chúng ta không thể không cần đến những khái niệm, phạm trù khác (có thể đồng nghĩa hoặc trái nghĩa, có thể có ngoại diên rộng hơn hay hẹp hơn) như một phương tiện bổ trợ. Vận dụng phương pháp luận này, Lênin đã nêu lên định nghĩa mang tính kinh điển về vật chất, góp phần đánh đổ những quan niệm duy tâm, siêu hình về vật chất của các nhà khoa học theo chủ nghĩa duy tâm vật lý. 4 Lý luận của Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, về quá trình hình thành và phát triển của các khái niệm, phạm trù, quy luật cũng như tính mềm dẻo và sự chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng đã cung cấp phương pháp luận khoa học trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Do chưa hiểu sâu sắc về nguồn gốc và bản chất của các khái niệm, phạm trù, chưa nắm bắt thấu đáo phép biện chứng khái niệm, nên một thời gian dài trước thời kỳ “Cải tổ” (Liên Xô), “Mở cửa” (Trung Quốc), “Đổi mới”(Việt Nam), trong giới lý luận xã hội chủ nghĩa nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã phát sinh chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hóa nội dung và vai trò của các phạm trù trong triết học Mác - Lênin, xem chúng như những “khuôn vàng thước ngọc” để thẩm định mọi vấn đề thực tiễn, là những “phương thuốc vạn năng” có thể “chữa trị” mọi “căn bệnh” của chủ nghĩa xã hội: tụt hậu về kinh tế, khủng hoảng về giá trị, niềm tin. Các nhà lý luận mácxít hậu Lênin coi các phạm trù triết học mácxít như những “cái gì đã xong xuôi hẳn” mà không cần có sự bổ sung, chỉnh lý. Hơn nữa, việc vận dụng các khái niệm, phạm trù một cách rập khuôn, cứng nhắc, không tính đến hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, không quan tâm đến tính năng động mềm dẻo của các khái niệm, phạm trù đã dẫn đến tình trạng ngộ nhận, không nhận thức đúng tình hình kinh tế - xã hội của đất nước cũng như bản chất của thời đại, bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, làm phát sinh chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, bệnh hình thức chủ nghĩa, v.v.. Ở Việt Nam, nhận thức rõ vấn đề này, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới, yêu cầu phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, tư duy lý luận. Nhờ đổi mới tư duy, giới lý luận Việt Nam đã nhận thức lại và nhận thức đúng đắn một số vấn đề về thời đại, chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa tư bản hiện đại, nguy cơ và thời cơ, cơ chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và hệ thống chính trị hiện đại12. Những thành tựu kinh tế - xã hội mà Việt Nam đạt được trong hơn 30 năm đổi mới có sự đóng góp không nhỏ của việc nhận thức đúng và vận dụng năng động, linh hoạt các phạm trù triết học duy vật biện chứng vào thực tiễn đời sống, nhất là trong việc nhận thức lại chủ nghĩa xã hội13, chủ nghĩa tư bản cũng như các mâu thuẫn cơ bản của thời đại, từ đó xác định đúng đối tác đối ngoại và làm tốt công tác tổ chức cán bộ. Thực tiễn cho thấy, nếu không nắm vững cơ sở lý luận và phương pháp luận triết học duy vật biện chứng Mác - Lênin sẽ không thể cắt nghĩa những biến động chính trị - xã hội mang tính bước ngoặt, bởi vì bản thân cuộc sống đã là một quá trình biện chứng, luôn vận động và biến đổi theo quy luật tất yếu khách quan của lịch sử. 1. Ernst Mach (1838-1916), nhà vật lý học, triết học người Áo, theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan, cùng với R. Avenarius, sáng lập chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Xuất phát từ triết học duy tâm của G. Berkeley và D. Hume, Mach phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới bên ngoài và độc lập với ý thức; bác bỏ nội dung khách quan của các khái niệm khoa học, các quy luật và tính nhân quả, cho rằng chúng là sản phẩm của trí tuệ, tâm lý con người. 2, 8. V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 18, tr. 167, 321. 3, 4, 5, 6, 7, 10, 11. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 29, tr. 223-224, 305, 202-203, 192-193, 102, 210, 156. 9. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 42, tr. 363. 12. Nguyễn Thị Thọ, Lê Công Sự: “Đổi mới tư duy lý luận trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Nhìn từ góc độ triết học Mác - Lênin”, in trong Kỷ yếu kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, tháng 10/2017. 13. Dương Phú Hiệp: "Chủ nghĩa xã hội cần được nhận thức lại", Tạp chí Triết học, số 1, 1988, tr. 16. Theo Tạp chí Nhịp cầu tri thức PGS.TS. Lê Công Sự Đại học Hà Nội |