Tại sao lại có người đồng tính

LGBT hoặc LGBTQ là thuật ngữ mô tả xu hướng tình dục ngoài dị tính của con người, viết tắt của 

  • Lesbian ( đồng tính luyến ái nữ) 
  • Gay (đồng tính luyến ái nam) 
  • Bisexual ( Song tính luyến ái) 
  • Transgender ( chuyển đổi giới tính) 
  • Queer ( xu hướng tình dục và bản dạng giới khác biệt) hoặc Questioning ( không nhận định được giới tính của mình) 

Những người này có sự hấp dẫn tình yêu và tình dục khác với những người dị tính, hay nói cách khác là yêu người cùng giới hoặc yêu hai giới hoặc không giới nào.

Tại sao lại có người đồng tính

LGBT không chỉ là đồng tính luyến ái, xu hướng tình dục của họ rất đa dạng và được thể hiện trên 4 khía cạnh:

  • Bản dạng giới là con người bạn cảm thấy bên trong và cách bạn thể hiện những cảm xúc đó thông qua cách bạn hành động, nói chuyện, ăn mặc, v.v.
  • Hấp dẫn tình dục là cảm xúc lãng mạn hoặc tình dục mà bạn có đối với người khác.
  • Nhận dạng giới tính là cách bạn gắn nhãn cho mình (ví dụ: sử dụng các nhãn như đồng tính, đồng tính nam, đồng tính nữ, thẳng thắn hoặc lưỡng tính).
  • Hành vi tình dục là việc bạn quan hệ tình dục với ai và bạn muốn có kiểu quan hệ tình dục nào. 

Vì sao LGBT dù có cơ thể giống người khác nhưng lại có xu hướng tình dục đồng tính?

Tuyến sinh dục của thai nhi phát triển chủ yếu dựa trên sự có hay không nội tiết tố Androgen kích thích bài tiết testosteron trong tuần thứ 6 tới tuần thứ 12 của thai kỳ là yếu tố quan trọng cho sự hình thành dương vật, bìu, tuyến tiền liệt. Ngược lại, sự thiếu vắng nội tiết tố Androgen ở giới nữ kích thích hình thành cơ quan sinh dục đặc trưng nữ giới. 

Sau đó, hormone sinh dục tác động lên não và kích hoạt ở tuổi dậy thì quyết định bản dạng giới tính. Vì hai quá trình này diễn ra riêng biệt, mức độ nam tính hóa bộ phận sinh dục không nhất thiết liên quan đến sự nam tính hóa của não và đó là lý do vì sao đồng tính luyến ái có bộ phận sinh dục không khác những người khác. 

Đâu là nguyên nhân chính của xu hướng tình dục đồng tính?

Các nhà khoa học vẫn chưa biết nguyên nhân chính xác của xu hướng tình dục, nhưng họ đưa ra giả thuyết rằng đó là do sự tác động lẫn nhau phức tạp giữa các yếu tố di truyền, nội tiết tố và môi trường.  

Thuyết sinh học

Nhiều nghiên cứu cho thấy, não bộ thai nhi hình thành ở trạng thái ban đầu là của giới nữ với tất cả mọi người. Sự có mặt của của nhiễm sắc thể giới tính Y thúc đẩy sự phát triển tinh hoàn, kích thích bài tiết hormon testosteron kích hoạt thụ thể androgen gây nam tính hóa thai nhi và não bộ thai nhi. Sự nam tính hóa giúp cơ thể bé trai phát triển một cách nam tính và bị thu hút bởi nữ giới

Tại sao lại có người đồng tính

Sự tiếp xúc của testosterone với những vùng quy định giới tính của não bộ ở người đồng tính luyến ái nam là thấp hơn so với đàn ông khác. Ngược lại, quá trình này lại diễn ra quá mức ở người đồng tính luyến ai nữ.

Thuyết miễn dịch

Một số nghiên cứu khác lại kết luận rằng, quá trình miễn dịch của mẹ có thể gây ra sự biến đổi giới tính ở thai nhi. Trong quá trình thụ tinh và mang thai, những tế bào vốn không thuộc cơ thể mẹ từ bố sẽ kích thích hệ miễn dịch sản sinh ra kháng nguyên vô hiệu hóa chính chúng. Những kháng nguyên này qua rau thai vào thai nhi và ảnh hưởng ít nhiều lên sự biểu hiện nhiễm sắc thể giới tính Y trong quá trình nam tính hóa. 

Người phụ nữ càng sinh nhiều con trai thì tỉ lệ đồng tính luyến ái nam ở những lần sinh sau càng cao. Hiện tượng này được các nhà khoa học gọi là “Hiệu ứng thứ tự sinh anh em”. Kháng thể được xem là nguyên nhân chính của quá trình trên là NLGN4Y Y-protein 

Tại sao lại có người đồng tính

Di truyền tế bào

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, những người đồng tính luyến ai nam thường có chung một điểm tại vị trí Xq28 mà người khác không có, thường do sự biến đổi trong quá trình di truyền.

Tại sao lại có người đồng tính

Một nghiên cứu khác lại cho rằng sự hoạt động của gen SRI TRK6 trên NST số 13 tại vùng dưới đồi ảnh hưởng tới sự quyết định giới tính. 

Môi trường

Một số giả thuyết cho rằng thói quen không phù hợp thời thơ ấu lặp đi lặp lại có thể làm cho đứa trẻ lớn lên không dị tính. Những thói quen đó có thể là trẻ nam thích mặc quần áo nữ, muốn để tóc dài, chơi với búp bê, không thích các môn thể thao cạnh tranh thô bạo, thích các bé gái làm bạn cùng chơi, biểu hiện sự lo lắng chia ly cao độ và mong muốn được trở thành" hoặc tin rằng mình là một cô gái. Những bé gái thì ngược lại, thích chơi trò có tính cạnh tranh cao, thiếu hứng thú với búp bê và đồ trang điểm. 

Môi trường tiếp xúc cũng ảnh hưởng rất nhiều tới việc xác định bản giới mỗi người. Việc tiếp xúc quá nhiều với người đồng tính luyến ái có thể làm một người nghĩ rằng họ phù hợp để trở thành một nửa của người đó. 

Xem thêm : 

Tại sao lại có người đồng tính
Khuynh hướng tính dục của mỗi con người đã được định sẵn từ khi mới sinh

Đã từ lâu lắm rồi, nhất là trong những năm giữa đến cuối của thập kỷ 20, chúng ta đều nghĩ rằng: Những khiếm khuyết về tâm lý, những sai lệch trong môi trường sống… cùng rất nhiều yếu tố tinh thần khác đã làm rối loạn khuynh hướng tình dục, biến những con người bình thường thành những con người đồng tính luyến ái, bệnh tật và bị cả xã hội lên án. Họ, những người đồng tính luyến ái, chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong cộng đồng dân cư, khoảng 3 - 5%, đã phải sống trong mặc cảm tội lỗi, không được thể hiện chính mình và trong những con người ấy có rất nhiều người là thiên tài, đặc biệt là trong các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

Tại sao lại có người đồng tính

Thế nhưng, đến năm 1991, nhà thần kinh học tại bệnh viện chuyên về thần kinh Salk của Mỹ đã công bố một công trình gây chấn động các nhà khoa học. Đó là công trình về giải phẫu một phần não của vùng dưới đồi của 41 người chết do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số đó có 16 người đồng tính luyến ái, trong quá trình nghiên cứu một cách khoa học và xem xét nghiêm túc những chứng cứ thu thập được, ông cho biết: Ở những người đồng tính, thành phần não điều khiển hành vi tính dục ở người và các động vật có vú cao cấp chỉ nhỏ bằng một nửa của những người bình thường.

Năm 1993, các nhà nghiên cứu khác do bác sỹ Dean Harner lãnh đạo đã tìm thấy mối quan hệ mật thiết giữa hệ thống di truyền của con người và bệnh đồng tính luyến ái. Họ tìm thấy một đoạn gene đặc biệt trên nhiễm sắc thể giới tính X được truyền từ người mẹ sang và hay gặp ở những người đồng tính.

Tại sao lại có người đồng tính

Đến năm 2003, các nhà nghiên cứu y học xã hội của Mỹ cũng đã tìm thấy mối liên quan giữa các đặc điểm của bàn tay nam giới với thái độ tính dục. Do tác động của các hormone giới tính nam, nhất là testosterone, đàn ông thường có ngón tay trỏ ngắn hơn ngón đeo nhẫn và bàn tay của những người phụ nữ đồng tình ái cũng mang đặc điểm này.

Có rất nhiều công trình nghiên cứu khác của các nhà khoa học từ đông sang tây đều nhằm mục đích chứng minh rằng: Ngay từ khi mở mắt chào đời, khuynh hướng tính dục của mỗi con người đã được định sẵn, chứ không phải do ảnh hưởng của xã hội hay môi trường sống. Một người có khuynh hướng tình dục đồng giới hay khác giới đều do cha sinh mẹ đẻ mà ra, hoàn toàn chẳng liên quan chút nào tới nền giáo dục hay môi trường xã hội.

Tất cả các nghiên cứu nhằm chứng minh: Đồng tính luyến ái có nguồn gốc từ những khiếm khuyết về thể chất có từ khi cha sinh mẹ đẻ, đã được sự ủng hộ của rất nhiều người và nhiều tồ chức xã hội vì nhiều mục đích khác nhau.

Một số người khác theo các quan điểm bảo thủ thì luôn luôn khẳng định: Những người đồng tính luyến ái đều có những khiếm khuyết quan trọng về thể chất, nhất là vùng điều khiển tính dục trong não bộ.

Tuy nhiên, những người rất ủng hộ quan điểm này vẫn còn ngần ngại vì trong các công trình nghiên cứu, số lượng người được khảo sát còn quá ít và chúng ta cần phải chờ đợi một thời gian nữa với những công trình quy mô hơn để khẳng định tính khoa học của các luận điểm trên. Đó là khía cạnh khoa học, còn ở khía cạnh nhân văn, chúng ta nên bình tĩnh và không vội áp đặt một điều gì.

TTCT - Đồng tính luyến ái (homosexual) có nguồn gốc từ sinh học (di truyền) hay môi trường và văn hóa? Câu hỏi tưởng đơn giản mà tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc cho nghiên cứu, nhưng câu trả lời vẫn chưa có và chưa thuyết phục. Nghiên cứu mới nhất và lớn nhất thế giới cho rằng đã khám phá 5 “vùng gene” có liên quan đến đồng tính luyến ái, nhưng tôi nghĩ kết quả này thực ra nói lên rằng xu hướng đồng tính luyến ái không phải do di truyền.

Tại sao lại có người đồng tính
 

Hầu như tất cả chúng ta đều có bạn hay biết người đồng tính luyến ái (ĐTLA). Tôi cũng có một số bạn là người ĐTLA, một thành viên trong lab nghiên cứu của tôi là người ĐTLA và rất có tài. Ngoài tài năng trong nghệ thuật và ẩm thực, cộng đồng ĐTLA có khá nhiều người thành đạt trong xã hội.

Chẳng hạn, cựu chánh án tòa án tối cao của Úc (Michael Kirby) và cựu viện trưởng Viện đại học Macquarie là người ĐTLA. Trong chính trường Úc, có hơn 20 dân biểu hoặc bộ trưởng là người ĐTLA. Dù thỉnh thoảng bị kỳ thị nhưng nói chung họ được cộng đồng kính nể vì tài năng trong nghệ thuật, kinh doanh và viễn kiến chính trị.

Một lịch sử tìm kiếm câu trả lời

ĐTLA tương đối phổ biến trong cộng đồng. Nghiên cứu trên thế giới cho thấy cứ 100 người trong cộng đồng thì có chừng 5-10 người là ĐTLA (1). Tỉ lệ này ở nữ giới là 2-4%. Tỉ lệ khác biệt giữa các nghiên cứu chủ yếu là do khác biệt về định nghĩa thế nào là ĐTLA, và do người tham gia nghiên cứu có “khai báo” thành thật hay không.

Tại các quốc gia với văn hóa “bảo thủ” ở châu Á, tỉ lệ ĐTLA có vẻ thấp hơn các nước phương Tây. Nhưng nếu làm nghiên cứu khách quan và chính xác thì có lẽ tỉ lệ ĐTLA giữa các quốc gia có thể sẽ không khác nhau nhiều.

Giả thuyết về ảnh hưởng của gene đến xu hướng ĐTLA đã được đặt ra từ hơn 20 năm trước. Phương cách dễ nhất và khoa học nhất để biết được mức độ ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến một đặc tính sinh học là xem xét những cặp song sinh.

Có hai nhóm song sinh: nhóm MZ, mà trong đó hai người có 100% gene giống y chang nhau, và nhóm DZ với hai người “chia sẻ” 50% gene. Do đó, nếu ĐTLA trong nhóm MZ nhiều hơn nhóm DZ thì đó là chứng cứ cho thấy có sự ảnh hưởng của yếu tố di truyền (gene).

Trong một công trình nghiên cứu nổi tiếng, hai tác giả Bailey và Pillard ước tính rằng trong nhóm MZ, khi một người là ĐTLA thì xác suất người song sinh cũng ĐTLA là 52%; trong nhóm DZ, xác suất này là 22%.

Kết quả này nhất quán với sự ảnh hưởng của gene đến xu hướng ĐTLA. Họ ước tính thêm rằng các di truyền tố giải thích khoảng 31% đến 74% những khác biệt giữa các cá nhân về xu hướng ĐTLA (2).

Sau khi đã “chứng minh” rằng xu hướng ĐTLA là một phần do yếu tố di truyền quyết định, câu hỏi kế tiếp là gene nào. Đây là một câu hỏi đơn giản, nhưng câu trả lời thì không hề đơn giản. Xác định trong số khoảng 24.000 gene và khoảng 2 triệu biến thể gene (polymorphism) có liên quan đến ĐTLA là một công việc được ví von là “mò kim đáy biển”’.

Tuy nhiên, trong thời gian qua đã có nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới tìm những gene mà họ hi vọng có thể giúp giải thích tại sao người ta có xu hướng trở nên ĐTLA.

Một trong những phát hiện gene làm phấn chấn cộng đồng nghiên cứu về ĐTLA được công bố vào đầu thập niên 1990. Qua nghiên cứu trên 40 cặp song sinh dạng DZ, nhóm nghiên cứu của Dean Hamer tuyên bố rằng họ đã phát hiện “gay gene”.

Trong số 40 cặp song sinh, họ phát hiện 33 cặp “chia sẻ” vùng gene có tên là Xq28 (3). Bởi vì xác suất mà hai người của một cặp song sinh DZ (hay hai anh em) có cùng gene là 50%, trong khi đó ở nghiên cứu này, xác suất này lên đến 82% (33/40), nên đây là một phát hiện có ý nghĩa.

Nhưng vùng gene này có đến 4 triệu cặp mẫu tự (base pairs), nên việc xác định chính xác mẫu tự nào có liên quan đến ĐTLA vẫn là một thách thức khoa học. Do đó, nhiều nghiên cứu sau này khó lặp lại kết quả của nhóm Hamer.

Thay vì tập trung vào một gene đơn lẻ, một cách khác để tìm gene là rà soát toàn bộ nhiễm sắc thể, còn gọi là “genomewide association study” (GWA) để phát hiện xem vùng gene nào có thể có liên quan đến ĐTLA. Phương pháp GWA đòi hỏi phải có cỡ mẫu lớn và chi phí cao, và đòi hỏi phải có hợp tác quốc tế với nhiều chuyên gia từ nhiều chuyên ngành khác nhau.

Tại sao lại có người đồng tính
Minh họa của Time

Nên hiểu thế nào về nghiên cứu mới nhất ?

Năm ngoái, một nhóm nghiên cứu Mỹ, Úc và Anh đã ứng dụng phương pháp GWA để tìm gene có liên quan đến ĐTLA và kết quả của họ đã được công bố trong một hội nghị di truyền học ở Mỹ. Kết quả này mới được chính thức công bố trên tập san khoa học lừng danh Science vào tuần qua (4).

Để hiểu kết quả nghiên cứu đó, tôi cần phải mô tả một số chi tiết chính về cách các nhà nghiên cứu đã thực hiện. Họ dùng dữ liệu của Dự án UKBiobank và của Công ty di truyền học “23andMe”. Tổng số cỡ mẫu nghiên cứu lên đến 477.000 người.

Họ định nghĩa ĐTLA bằng cách hỏi đối tượng tham gia nghiên cứu. Chẳng hạn, họ hỏi đối tượng nghiên cứu là “có quan hệ tình dục” với người đồng giới tính hay không, sau đó họ hỏi thêm về những mơ tưởng mang tính dục tính (sexual fantasy) của đối tượng nghiên cứu mà họ nghĩ là có xu hướng ĐTLA. Nói cách khác, cách nhóm nghiên cứu định nghĩa và xác định ai là ĐTLA không mang tính khoa học cao, vì chẳng có xét nghiệm sinh học nào cả.

Kết quả phân tích trên hơn 1 triệu biến thể gene, nhóm nghiên cứu phát hiện 5 vùng gene (thuật ngữ di truyền gọi là “loci”) trong hệ gene có liên quan đến xu hướng ĐTLA (theo cách họ xác định như mô tả trên). Nói đúng ra là không hẳn là “vùng gene”’ mà là 5 biến thể (SNP).

Trong số 5 vùng gene này, có 2 vùng cho cả nam và nữ, 2 vùng chỉ phát hiện ở nam giới, và 1 vùng chỉ ở nữ giới (4). Điều thú vị là 2 trong số 5 vùng gene đó từng được biết là có liên quan đến hormone sinh dục và khứu giác. Hai yếu tố này, hormone sinh dục và khứu giác, làm cho người ta cảm thấy hấp dẫn với nhau.

Kết quả nghiên cứu này tuy được công bố trên tập san Science nhưng giới nghiên cứu di truyền học trên thế giới không… ấn tượng. Lý do là vì cách thức mà nhóm nghiên cứu định nghĩa ĐTLA là thiếu tính khoa học và có phần không thỏa đáng, bởi vì không có xét nghiệm hormone thì rất khó nói những gì đối tượng nghiên cứu “khai báo” có hợp lý hay không. Khi xem xét kỹ kết quả nghiên cứu, có vài dữ liệu rất khó diễn giải. Chẳng hạn như SNP số rs34730029 (phát hiện ở nam giới) hiện diện trong 94% dân số - một tần số cao một cách bất thường.

Nhưng cả 5 vùng gene này cũng giải thích không đầy 1% những khác biệt về xu hướng ĐTLA. Nói cách khác, những gene phát hiện không thể giúp nhà nghiên cứu tiên lượng ai là ĐTLA hay không ĐTLA. Nói cách khác nữa, chẳng có gene ĐTLA nào cả. Nếu kết quả này đúng thì ý nghĩa là xu hướng ĐTLA không phải hiện hữu từ lúc còn trong bụng mẹ hay mới sinh ra.

Nếu xu hướng ĐTLA không phải do yếu tố sinh học, câu hỏi kế tiếp là tại sao người ta trở nên ĐTLA? Câu trả lời là do môi trường và văn hóa. Trung tâm nghiên cứu tâm lý Kinsey từng quan sát rằng có không ít cặp vợ chồng ăn ở với nhau, có con, nhưng sau này thì một trong hai người trở nên ĐTLA (5).

Thậm chí, một số người quan sát rằng chuyên ngành tiếp viên hàng không là kỹ nghệ thu hút nhiều người ĐTLA nam giới (6) (nhưng xu hướng này không có nghĩa là làm việc trong môi trường hàng không là nguyên nhân của ĐTLA). Dĩ nhiên, cũng không loại trừ một số người tự chọn trở thành ĐTLA.

Ngay từ thập niên 1960 đã có nhiều giả thuyết giải thích tại sao người ta trở nên ĐTLA. Các giả thuyết này nhấn mạnh đến các yếu tố môi trường xã hội trong giai đoạn đứa trẻ đang phát triển, sự ảnh hưởng của cha mẹ, và sự gắn bó với cha hay mẹ.

Đáng chú ý trong các nghiên cứu này là quan sát của nhà tâm lý học Irving Bieber, khi ông phát hiện qua phân tích thống kê rằng ở nam giới, những người trưởng thành “bình thường” nhưng sau này lớn lên trở thành ĐTLA, trước đó thường có quyến luyến với mẹ hơn là với cha (7).

Kết quả nghiên cứu này được lặp lại bởi các nhóm nghiên cứu khác. Chẳng hạn như một nghiên cứu vào giữa thập niên 1960 phát hiện rằng gần 70% những người đàn ông ĐTLA gần gũi và gắn bó với mẹ, và khoảng 1/3 không thân thiện với cha (7).

Tóm lại, nghiên cứu khoa học mới nhất tuyên bố rằng không có gene ĐTLA, và điều này nói lên rằng xu hướng ĐTLA không phải có ngay từ lúc mới sinh ra. Nhiều nghiên cứu trong quá khứ nói lên rằng xu hướng ĐTLA chủ yếu do các yếu tố môi trường xã hội và đặc biệt là sự gắn bó của nam giới với mẹ. ■