Tại sao bị viêm gan

Viêm gan cấp tính trước hết cần phải được chẩn đoán phân biệt với các rối loạn khác có thể gây nên những triệu chứng tương tự. Trong giai đoạn tiền triệu, bệnh viêm gan có biểu hiện giống các bệnh nhiễm vi-rút không đặc hiệu khác nhau và rất khó chẩn đoán. Các bệnh nhân không có vàng da nghi ngờ bị viêm gan dựa trên các yếu tố nguy cơ cần được kiểm tra trước hết bằng các xét nghiệm chức năng gan không đặc hiệu, bao gồm aminotransferase, bilirubin, và phosphatase kiềm. Thông thường, chấn đoán viêm gan cấp tính chỉ được đặt ra trong giai đoạn vàng da. Vì vậy, viêm gan cấp tính cần được chẩn đoán phân biệt với các rối loạn khác gây vàng da Vàng da

Tại sao bị viêm gan
(xem hình: Cách tiếp cận chẩn đoán đơn giản đối với viêm gan vi-rút cấp tính Đơn giản hóa cách tiếp cận chẩn đoán đối với viêm gan vi-rút cấp tính.
Tại sao bị viêm gan
.).

Viêm gan cấp tính thường được chẩn đoàn phân biệt với các nguyên nhân khác của vàng da bằng

  • Mức tăng đáng kể của aspartate aminotransferase (AST) và alanine aminotransferase (ALT): Thông thường ≥ 400 IU/L (6,68 microkat/L)

Trường hợp điển hình, ALT tăng cao hơn AST, nhưng độ chênh lệch tương quan kém với độ nặng trên lâm sàng. Các giá trị này tăng sớm trong giai đoạn tiền triệu, đạt đỉnh trước thời điểm vàng da nặng nhất, và giảm dần trong giai đoạn phục hồi. Bilirubin niệu thường đi kèm với vàng da. Tăng bilirubin máu trong viêm gan cấp tính thay đổi theo độ nặng, xét nghiệm phân đoạn không có giá trị trên lâm sàng. Phosphatase kiềm thường tăng mức độ vừa; tăng có ý nghĩa gợi ý ứ mật ngoài gan và cần tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh (ví dụ, siêu âm).

Sinh thiết gan thường không cần thiết trừ khi chẩn đoán không rõ ràng.

Nếu kết quả xét nghiệm gợi ý tình trạng viêm gan cấp, đặc biệt khi ALT và AST > 1000 IU/L (16,7 microkat/L), cần đo PT/INR.

Nếu nghĩ đến viêm gan cấp tính, bước tiếp theo cần tập trung xác định nguyên nhân gây bệnh. Tiền sử phơi nhiễm có thể là gợi ý duy nhất của viêm gan nhiễm độc hoặc do thuốc. Tiền sử cũng có thể giúp phát hiện các yếu tô nguy cơ của viêm gan vi-rút.

Nếu bệnh nhân có tiền triệu đau họng và sưng hạch lan tỏa cần nghĩ đến tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn hơn là viêm gan vi-rút.

Cần nghĩ đến viêm gan do rượu Bệnh học

Tại sao bị viêm gan
nếu bệnh nhân có:

Ngoài ra, không giống như ở viêm gan vi-rút, AST thường tăng cao hơn ALT, mặc dù sự khác biệt này không đáng tin cậy để phân biệt hai bệnh này. Trong những trường hợp không chắc chắn, sinh thiết gan thường giúp phân biệt viêm gan do rượu và do vi-rút.

Hepatitis is an inflammation of the liver characterized by diffuse or patchy necrosis.

Viêm gan có thể là cấp tính hoặc mạn tính (thường được định nghĩa là kéo dài > 6 tháng). Hầu hết các trường hợp viêm gan vi-rút cấp Tổng quan về Viêm Gan Vi-rút Cấp đều tự khỏi, nhưng một số trường hợp có thể tiến triển thành viêm gan mạn Tổng quan về Viêm Gan vi-rút .

Các nguyên nhân phổ biến

Các nguyên nhân thường gặp của viêm gan là:

  • Các vi-rút viêm gan điển hình

  • Rượu Bệnh gan do rượu

    Tại sao bị viêm gan

  • Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD) Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu bia (NAFLD)

  • Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu bia (NAFLD) (NASH)

  • Thuốc Tổn thương gan do thuốc gây ra (ví dụ isoniazid)

Có ít nhất 5 loại vi-rút điển hình được cho là có khả năng gây viêm gan (xem bàng: đặc điểm của viêm gan Đặc điểm của Vi-rút Viêm Gan

Tại sao bị viêm gan
). Các vi-rút không xác định khác cũng có thể gây viêm gan vi-rút cấp.

Nguyên nhân ít phổ biến hơn

Các nguyên nhân ít gây viêm gan bao gồm các rối loạn miễn dịch Rối loạn tự miễn dịch , rối loạn về gen, bệnh nhiễm vi-rút khác (ví dụ:, nhiễm mononucleosis Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn

Tại sao bị viêm gan
, sốt vàng Sốt vàng da , nhiễm cytomegalovirus Nhiễm Cytomegalovirus (CMV) ) và bệnh nhiễm leptospira Leptospirosis .

Nhiễm ký sinh trùng (như sán máng Sán máng , sốt rét Bệnh sốt rét , lỵ amip) Nhiễm amip , nhiễm khuẩn sinh mủ, và các khối áp xe gây ảnh hưởng đến gan không được coi là viêm gan. Bệnh gan liên quan đến lao (TB) và các thâm nhiễm hạt khác đôi khi được gọi là viêm gan thể hạt, nhưng các đặc điểm lâm sàng, sinh hóa và mô học của bệnh lý này khác với tổn thương lan tỏa trong viêm gan do vi-rút, rượu và ma túy.

Một số trường hợp nhiễm trùng toàn thân và các bệnh khác có thể gây ra các vùng viêm hoặc hoại tử khu trú ở gan. Tình trạng viêm gan phản ứng không đặc hiệu này có thể gây rối loạn chức năng gan mức độ nhẹ và thường không có triệu chứng.

Một số thể viêm gan nhiễm khuẩn hoặc không nhiễm khuẩn được tổng hợp tại bảng Các bệnh nhiễm trùng có liên quan đến gan Một số nhiễm trùng gây ảnh hưởng đến gan

Tại sao bị viêm gan
.