Sắc tức thị ko ko tức thị sắc là gì

Sắc Tức Thị Không – Không Tức Thị Sắc không phải là dạy chúng ta từ bỏ tất cả, mà nó giúp chúng ta có cái nhìn cân bằng hơn trong cuộc sống. Không chấp trước vào sự thay đổi dù tích cực hay tiêu cực, không bị mắc kẹt trong trạng thái tiêu cực ở hiện tại, không tức giận vì hôm nay trời nắng mà không mưa. Mọi thứ đều do nhân duyên mà tạo thành, nhân tốt thì quả tốt, mai là một ngày mới, đâu ai biết thủy triều sẽ mang đến điều gì.

Tất cả cũng do nhân duyên tạm bợ nương gá nhau mà thành. Hết duyên thì tan rã rồi trở về với cát bụi hư vô. Không có gì là tự thân riêng biệt của chính nó cả. Vậy, nếu có vị nào hiểu được từ cái không mà do nhân duyên nương gá nhau để hợp lại thành cái có (ví dụ như là thân này, nhà cửa, xe cộ, sông núi) khi hết duyên mọi thứ tan rã, và từ cái có lại trở về với không, mỗi giây phút chúng ta đang sống thì cũng đồng nghĩa là chúng ta đang dần dần chết.. thì quý vị đã hiểu được ý nghĩa sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Câu nói “phiền não tức bồ đề” cũng là từ ý này.

“Này Xá-lợi-phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế”.

“Xá-lợi-phất! Tướng không của các pháp chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt. Cho nên trong “không”, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức”.

Đoạn văn kinh trên gồm ba phần:

- Giới thiệu.

- Giải thích

- Kết luận.

Phần giới thiệu nêu lên điểm chủ yếu là “Năm uẩn đều không”. Năm uẩn gồm sắc (hiện tượng vật lí, sinh lí), thọ, tưởng, hành, thức (hiện tượng tâm lí). Đối với sự quán chiếu của bồ-tát thì tất cả hiện tượng ấy là không. Vì sao gọi là không? “Không” mang ý nghĩa gì? Kinh chép: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế”. Vậy sở dĩ sắc là không, cũng như quan hệ giữa không và sắc thì kinh văn đã giải thích rõ, cuối cùng phần kết luận xác nhận “không” chẳng phải gì khác mà chính là tướng không của các pháp, không sinh, không diệt… mà bồ-tát chứng ngộ. Trong tướng không của các pháp thì năm uẩn đều bất khả đắc (không thật), vì bất khả đắc cho nên không thấy, vì không thấy nên không chấp trước vậy.

Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh có rất nhiều bản Hán dịch. Khi đối chiếu tôi thấy có mấy điểm cần nêu lên để bổ sung:

- Trong bản dịch của ngài La-thập và ngài Huyền Trang đều ghi: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Còn các bản dịch của ngài Thi Hộ, Pháp Nguyệt, Trí Tuệ Luân ghi: “Ngũ uẩn tự tánh giai không”. Bản dịch của Pháp Thành ghi: “Ngũ uẩn thể tánh giai không”.

“Ngũ uẩn giai không” nghĩa là tự tánh của năm uẩn là “không”. “Không” là tên khác của vô tự tánh.

Bản dịch của ngài La-thập, Pháp Nguyệt, tam tạng sa-môn Bát-nhã và Lợi Ngôn ghi: “Thị chư pháp không tướng”. Bản dịch của ngài Trí Tuệ Luân ghi: “Thị chư pháp tánh tướng không”. Bản dịch của ngài Pháp Thành ghi: “Nhất thiết pháp không tánh”.

“Không tướng” (tướng không) là tên khác của “không tánh” (tánh không).

Xét hai điểm bất đồng về văn kinh trong các bản Hán dịch trên, có thể cho là không lầm lẫn mà còn bổ sung nhau, làm sáng tỏ hơn. Ngoài ra, trước đoạn “Sắc bất dị không… không tức thị sắc”, thì bản dịch của ngài Pháp Nguyệt ghi: “Sắc tánh thị không, không tánh thị sắc”. Bản dịch của Trí Tuệ Luân ghi: “Sắc không, không tánh hiện sắc”.

Trong Tâm kinh và kinh Đại Bát-nhã, Đức Phật cũng nói cho ngài Xá-lợi-phất nghe một câu tương tự như thế. Nay cũng nêu lên để cùng so sánh tham khảo. Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật 1 quyển (bản y cứ của luận Đại Trí độ), ngài La-thập dịch:

“Không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Li sắc diệc vô không. Li thọ, tưởng, hành, thức diệc vô không”.

“Sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức thị không, không tức thị sắc”.

“Chư pháp thật tánh vô sanh vô diệt, vô cấu vô tịnh cố”.

(Trong “không” không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; lìa sắc chẳng có không; lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có không).