Tiêm là một thủ thuật xâm lấn, phổ biến nhất trong y tế. Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), mỗi năm toàn thế giới có khoảng 16 tỉ mũi tiêm, 90-95% mũi tiêm (trung bình 1,5 mũi tiêm/người/năm) nhằm mục đích điều trị, 5-10% mũi tiêm dành cho dự phòng. Nhưng, khoảng 70% các mũi tiêm sử dụng trong điều trị thực sự là không cần thiết và có thể thay thế được bằng đường uống. Nhiều loại thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau, thuốc vitamin sử dụng đường uống có tác dụng ngang bằng với thuốc tiêm và an toàn hơn. Hàng năm tiêm không an toàn gây lên: 1,3 triệu ca chết sớm; mất 26 triệu năm sống; tổn thất kinh phí gián tiếp 535 triệu USD/năm. Nhiễm khuẩn đường máu mới ước tính: 22 triệu ca HBV (1/3 tất cả các ca nhiễm khuẩn); 2 triệu ca HCV (40% các ca nhiễm khuẩn); 260.000 ca HIV (5% các ca nhiễm khuẩn). Tỉ lệ nhiễm virus mới của nhân viên y tế: HBV 6-30/100 trường hợp; HCV 3-10/100 trường hợp, HIV 1/300 trường hợp. Tổn thương hoặc phơi nhiễmXử lýTổn thương do kim tiêm hoặc do vật sắc nhọn1.Rửa ngay vùng da bị tổn thương bằng xà phòng và nước dưới vòi nước chảy 2. Để máu ở vết thương tự chảy, không nặn bóp vết thương 3. Băng vết thương lạiBắn máu và/hoặc dịch cơ thể lên da bị tổn thương1. Rửa ngay vùng da bị tổn thương bằng xà phòng và nước dưới vòi nước chảy 2. Băng vết thương lại 3. Không sử dụng thuốc khử khuẩn trên da 4. Không cọ hoặc chà khu vực bị tổn thươngBắn máu hoặc dịch cơ thể lên mắt1.Xả nước nhẹ nhưng thật kỹ dưới dòng nước chảy hoặc nước muối 0,9% vô khuẩn trong ít nhất 5 phút trong lúc mở mắt, lộn nhẹ mi mắt. 2.Không dụi mắtBắn máu và/hoặc dịch cơ thể lên miệng hoặc mũi1. Nhổ khạc ngay máu hoặc dịch cơ thể và xúc miệng bằng nước nhiều lần 2. Xỉ mũi và rửa sạch vùng bị ảnh hưởng bằng nước hoặc nước muối 0,9% vô khuẩn 3. Không sử dụng thuốc khử khuẩn 4. Không đánh răngBắn máu và/hoặc dịch cơ thể lên da nguyên vẹn1. Rửa khu vực bị vấy máu hoặc dịch cơ thể ngay bằng xà phòng và nước dưới vòi nước chảy 2. Không chà sát khu vực bị vấy máu hoặc dịch 2. Báo cáo người phụ trách và làm biên bản: Ghi lại đầy đủ các thông tin như: Ngày, giờ, hoàn cảnh xảy ra tai nạn rủi ro, đánh giá vết thương, mức độ nguy cơ của phơi nhiễm. Lấy chữ ký của những người chứng kiến và chữ ký của người phụ trách. 3. Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm: - Có nguy cơ: Tổn thương do kim dính máu đâm xuyên qua da gây chảy máu; Tổn thương da sâu do dao mổ hoặc ác ống nghiệm chứa máu và chất dịch cơ thể của người bệnh bọ vỡ đâm phải; Máu và chất dịch cơ thể của người bệnh bắn vào các vùng da, niêm mạc bị tổn thương viêm loét hoặc xây sát từ trước. - Không có nguy cơ: Máu và dịch cơ thể của người bệnh bắn vào vùng da lành. 4. Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm: Đánh giá nguy cơ dựa vào triệu chứng lâm sàng của người bệnh nguồn. Người bệnh đã được xác định HIV (+): Tìm hiểu các thông tin về tiền sử và đáp ứng với thuốc ARV. Nếu chưa biết tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm: Tư vấn và lấy máu xét nghiệm HIV. 5. Xác định tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm: Tư vấn trước và sau khi xét nghiệm HIV theo qui định. Nếu ngay sau khi phơi nhiễm, người bị phơi nhiễm có HIV (+): Đã bị nhiễm HIV từ trước không phải do phơi nhiễm. Nếu HIV(-): kiểm tra lại sau 3 và 6 tháng. Xét nghiệm công thức máu và chức năng gan (ALT) khi bắt đầu điều trị và sau 2-4 tuần. Xét nghiệm HIV sau 3 và 6 tháng. Hỗ trợ tâm lý nếu cần thiết. 6. Tư vấn và điều trị sau phơi nhiễm: Người được xác định là phơi nhiễm với máu, dịch cơ thể và vật sắc nhọn từ nguồn có chứa HIV, HBV, HCV cần tới gặp bác sĩ chuyên khoa truyền nhiễm để được tư vấn, và điều trị dự phòng càng sớm càng tốt. Tác giả: CN Lê tiến Tú - Phó trưởng khoa KSNK Quản trị tin tức |