Nhóm máu là cách phân loại máu dựa trên các kháng nguyên ở hồng cầu. Kháng nguyên là các thụ thể có thể kích hoạt phản ứng của hệ thống miễn dịch. Nhóm máu được chia thành 8 nhóm phổ biến nhưng loài người có tổng cộng 36 nhóm máu. Show Truyền máu là một thủ thuật giúp phục hồi lượng máu trong cơ thể. Điều quan trọng của thủ thuật này là người nhận phải được truyền đúng nhóm máu chính xác, nếu không hệ thống miễn dịch sẽ được kích hoạt, gây ra các vấn đề sức khỏe và biến chứng sau đó. 1. Định nghĩa:Chúng ta có thể phân loại nhóm máu dựa trên hệ thống ABO hoặc Rhesus (Rh). Hai hệ thống nhóm máu này phân loại nhóm máu dựa theo các kháng nguyên có trên tế bào hồng cầu. Hệ thống ABO chia thành các nhóm máu:
Hệ thống Rh: các tế bào hồng cầu có thể có một kháng nguyên khác gọi là kháng nguyên Rh trên bề mặt của chúng, nếu có thì nhóm máu Rh dương tính, nhưng nếu không có thì nhóm máu Rh âm tính. Dựa trên đặc điểm của hai hệ thống nhóm máu trên, nhóm máu loài người chia làm 8 nhóm phổ biến:
Các gen của con người được thừa hưởng từ cha mẹ, chúng nhận diện các kháng nguyên và protein trong máu của họ. Vì yếu tố di truyền này, khi một người cần truyền máu, đặc biệt là những người có nhóm máu hiếm, cách tốt nhất là lấy máu từ những người cùng chủng tộc hoặc sắc tộc với người đó. Đối với các đặc điểm di truyền, chẳng hạn như nhóm máu, có xu hướng theo mỗi nhóm sắc tộc. Để tăng khả năng có nhóm máu phù hợp với người cần máu, các chuyên gia đề nghị nên kết hợp đánh giá sắc tộc giữa người nhận và người hiến máu, đặc biệt đối với các nhóm máu hiếm. Vì lý do này, một số cơ sở hiến máu thu thập thông tin sắc tộc của những người hiến máu. Đối với một số bệnh, chẳng hạn như bệnh thalassemia và bệnh hồng cầu hình liềm, sự phù hợp này thậm chí còn quan trọng hơn vì những bệnh lý này phổ biến hơn trong một số nhóm dân tộc nhất định và họ có thể cần truyền máu thường xuyên. Ví dụ: chỉ có 2% người hiến tặng có nhóm máu hiếm mà các bác sĩ thường sử dụng để điều trị bệnh hồng cầu hình liềm, nhưng nhu cầu về loại máu này đang tăng 10-15% mỗi năm. Sự hiếm hoi và nhu cầu về loại máu này nhấn mạnh tầm quan trọng của những người hiến máu. 2. Nhóm máu phổ biến theo sắc tộcTại Mỹ, 38% dân số có nhóm máu O – Rh dương và nó cũng là nhóm máu phổ biến nhất. Theo thống kê của Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ cho biết:
3. Nhóm máu hiếm theo sắc tộcNhóm máu ít phổ biển nhất tại Mỹ là nhóm máu AB, chiếm dưới 1% dân số. Theo thống kê của Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ cho biết các nhóm máu hiếm nhất:
Các kháng nguyên A và B chỉ đại diện cho hai trong số khoảng 600 loại kháng nguyên khác đã biết có thể phân biệt các nhóm máu. Điều quan trọng là phải phân biệt giữa loại máu hiếm nhất trong tám nhóm máu phổ biến nhất và loại máu cực kỳ hiếm gặp. Việc có một kháng nguyên mà hầu hết mọi người không có hoặc thiếu một kháng nguyên mà hầu hết mọi người đều có, có nghĩa là cá nhân đó có nhóm máu hiếm. Theo Hiệp hội Truyền máu Quốc tế, nếu chỉ có 1 người trong số 500 người bị thiếu kháng nguyên thì họ có nhóm máu hiếm. Nếu chỉ có 1 trong 1000 người thiếu nó thì nhóm máu của cá nhân này là rất hiếm. Ngoài ra, các nhà khoa học đã xác định được 36 hệ thống nhóm máu khác nhau, một số trong đó có thể gây ra các vấn đề khi truyền máu. Một số nhóm máu hiếm và hệ thống nhóm máu này đặc biệt phổ biến hơn ở một số nhóm sắc tộc nhất định. Theo dữ liệu của Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ cho biết các nhóm máu hiếm và nhóm sắc tộc mà nó phổ biến nhất:
Một số nhóm máu này cực kỳ hiếm. Ví dụ, các nhà nghiên cứu ước tính rằng chỉ 1 trong 6 triệu người có nhóm máu RzRz. 4. Tổng kếtNhóm máu được phân loại dựa trên các kháng nguyên và protein khác nhau có trên các tế bào hồng cầu. Để đảm bảo việc truyền máu cải thiện sức khỏe thay vì gây hại cho người bệnh, phải có sự tương thích giữa nhóm máu của người cho và nhóm máu của người nhận. Vì đặc điểm di truyền của một cá nhân ảnh hưởng đến nhóm máu của họ nên việc xem xét nhóm máu phổ biến nhất theo chủng tộc hoặc sắc tộc có thể giúp nhân viên y tế tìm kiếm và sử dụng hiệu quả máu và các chế phẩm máu phù hợp nhất với nhu cầu truyền máu của người bệnh. Xem thêm: Xét nghiệm định nhóm máu Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh
Máu là gì? Máu là một dịch lỏng màu đỏ chảy trong hệ thống tuần hoàn. Thể tích máu ở người trưởng thành là 5-6 lít ở nam giới và 4,5-5,5 lít ở nữ giới, chiếm trọng lượng 6-8% cơ thể. Máu gồm các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và một dịch có màu vàng chanh là huyết tương. Máu được sinh ra từ đâu? Nguồn gốc của các tế bào máu là các tế bào gốc sinh máu vạn năng có trong tủy xương, đó là những tế bào có khả năng sinh sản trong suốt cuộc đời. Một phần những tế bào được giữ lại trong tủy xương để duy trì nguồn cung cấp tế bào gốc, phần lớn hơn sẽ biệt hóa để tạo ra các dòng khác nhau của các tế bào máu gọi là các tế bào gốc biệt hóa. Các tế bào gốc sẽ biệt hóa qua nhiều giai đoạn để trở thành các tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu trưởng thành. 2. Cấu tạo các thành phần trong máu:Hồng cầuHồng cầu có hình đĩa lõm hai mặt, đường kính trung bình khoảng 7,5µm, chiều dày 1µm ở trung tâm và 2µm ở ngoại vi. Cấu trúc lõm này giúp hồng cầu di chuyển linh hoạt trong các mạch máu. Thành phần quan trọng nhất trong hồng cầu là Hemoglobin. Quá trình sản sinh hồng cầu chịu sự điều hòa của Erythropoietin, một hormone được sinh ra từ thận. Số lượng hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi là: 5,05±0,38 T/l (x1012 tế bào/ lít) ở nam giới và 4,66±0,36 T/l(x1012 tế bào/ lít) ở nữ giới. Bạch cầuLà những tế bào có chức năng chống lại các tác nhân lạ (như vi khuẩn, vi rút,…) đi vào cơ thể nhằm bảo vệ cơ thể. Người ta phân loại bạch cầu thành: bạch cầu hạt và bạch cầu không hạt. Bạch cầu hạt lại được chia thành bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa acid, bạch cầu ưa base. Bạch cầu không hạt thì gồm 2 loại là bạch cầu mono và bạch cầu lympho. Tiểu cầuLà những mảnh tế bào không có nhân, hình đĩa, đường kính khoảng 2-4µm, có màng bao bọc. Tiểu cầu là một cấu trúc rất hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong quá trình cầm máu. Số lượng tiểu cầu bình thường trong máu ngoại vi dao động từ 150-300 G/l, trong đó: nam : 263,0± 61 G/l, nữ: 274,0± 63,0 G/l. Huyết tươngLà phần dung dịch màu vàng, thành phần gồm nước, đạm, mỡ, đường, vitamin, muối khoáng, các men,… 3. Công dụng của MáuChức năng của máu. Máu có nhiều chức năng quan trọng mang tính sống còn đối với cơ thể.
4. Phân loại MáuCó bao nhiêu nhóm máu? Hai hệ thống nhóm máu phổ biến và quan trọng nhất là hệ thống nhóm máu ABO và hệ thống nhóm máu Rh. Hệ thống nhóm máu ABOĐược tìm ra lần đầu tiên vào năm 1901 bởi Karl Landsteiner, ông phát hiện ra sự có mặt của các kháng nguyên A và B trên màng hồng cầu và các kháng thể tương ứng anti A và anti B trong huyết tương. Dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của kháng nguyên A và B người ta phân ra 4 nhóm máu chính: Nhóm O : không có kháng nguyên A và B trên hồng cầu Nhóm B: có kháng nguyên B trên hồng cầu Nhóm AB: có cả kháng nguyên A và kháng nguyên B trên hồng cầu. Ở người Việt Nam, nhóm máu O chiếm ưu thể với khoảng 45% dân số, tiếp theo là nhóm máu B chiếm 28,3%, nhóm máu A chiếm 21,2% và nhóm máu AB chiếm 5,5%. Hệ thống nhóm máu RhĐược tìm ra vào năm 1940 bởi Lansteiner và các cộng sự. Hầu hết các kháng nguyên Rh (được ký hiệu bằng các chữ C,D,E,c,d,e) là kháng nguyên yếu, trừ kháng nguyên D. Người có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là người có Rh dương tính (Rh+), người không có kháng nguyên D trên hồng cầu được gọi là Rh âm tính (Rh-). Kháng thể anti D bình thường không có trong huyết tương của cả người Rh+ và Rh-. Khi truyền máu Rh+ cho người Rh- thì người Rh- sẽ sản xuất ra kháng thể anti D, sự tạo thành kháng thể này xảy ra chậm và thường chỉ đạt nồng độ tối đa sau 2-4 tháng. Nếu những người Rh- này lần sau lại tiếp tục nhận máu Rh+ thì các kháng thể anti D có sẵn trong cơ thể họ sẽ làm ngưng kết hồng cầu, xảy ra hiện tượng truyền máu. Đây là một hiện tượng rất nguy hiểm, nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh. Ở người Việt Nam, tỉ lệ Rh+ là 99,92% do đó những tai biến do không hòa hợp của nhóm máu Rh là rất hiếm gặp. 5. Những vấn đề cần lưu ýCác vấn đề thường gặp:
Nguồn: Vinmec |