Show
Tìm hiểu chung
Rối loạn nhân cách là một nhóm các rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến cách suy nghĩ, cảm nhận, hành động và cách ứng xử. Tính cách liên quan đến một tập hợp đặc trưng các đặc điểm, phong cách hành vi và các khuôn mẫu tạo nên tính cách hoặc cá tính của chúng ta. Bệnh có thể ảnh hưởng đến cách chúng ta nhận thức thế giới, thái độ, suy nghĩ và cảm xúc.
Rối loạn nhân cách có thể gây khó khăn trong việc giao lưu với gia đình và bạn bè. Những người bị rối loạn nhân cách rất khó nhận biết hành vi nào là bình thường hay bất thường. Rối loạn nhân cách có thể được phân thành các nhóm nhỏ có các hành vi tương tự: Mức độ phổ biến của rối loạn nhân cáchRối loạn nhân cách là tình trạng sức khỏe phổ biến, thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn nam giới. Bệnh có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân ở mọi lứa tuổi. Rối loạn nhân cách thường xuất hiện ở tuổi dậy thì và tiếp tục vào tuổi trưởng thành. Bệnh có thể được quản lý bằng cách giảm các yếu tố nguy cơ. Hãy thảo luận với bác sĩ để biết thêm thông tin. Triệu chứng
Các triệu chứng phổ biến của rối loạn nhân cách là:
Tùy thuộc vào rối loạn bạn có và nhóm bạn thuộc về, các triệu chứng có thể khác nhau:
Bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ. Khi nào bạn cần gặp bác sĩ?Nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nêu trên hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, xin vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ. Cơ địa mỗi người là khác nhau, vì vậy hãy hỏi ý kiến bác sĩ để lựa chọn được phương án thích hợp nhất. Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây rối loạn nhân cách. Bệnh có thể phát triển từ một chấn thương hoặc một sự kiện đầy kịch tính xảy ra trong cuộc sống. Một số nhà nghiên cứu gợi ý về sự mất cân bằng các chất hóa học trong não và các tác động của môi trường chỉ là nhân tố kích hoạt những thay đổi trong tính cách. Rối loạn nhân cách cũng kết hợp với các yếu tố di truyền và gia đình. Các trải nghiệm đau khổ hay sợ hãi trong suốt thời thơ ấu có thể làm tăng nguy cơ mắc rối loạn nhân cách. Các triệu chứng khác nhau tùy thuộc vào loại cụ thể của rối loạn nhân cách. Nguy cơ mắc phải
Có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây rối loạn nhân cách như:
Điều trị & chẩn đoán
Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ. Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán rối loạn nhân cách?Bác sĩ sẽ phỏng vấn bạn và gia đình bạn để biết các hành vi của bạn và so sánh với các tiêu chuẩn đối với từng loại rối loạn. Họ cũng sẽ hỏi về bất kỳ sự kiện quan trọng xảy ra gần đây với bạn hoặc ảnh hưởng đến tình cảm của bạn. Bệnh sử và môi trường sống cũng sẽ được đưa vào xem xét trong chẩn đoán. Trong một số trường hợp, bác sĩ tâm thần có thể thực hiện các xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm sàng lọc cho rượu và ma túy để xác định các nguyên nhân có thể. Những phương pháp nào dùng để điều trị rối loạn nhân cách?Điều trị phụ thuộc vào các rối loạn của bạn, nhưng nói chung, có một vài phương pháp điều trị chung như sau:
Chế độ sinh hoạt phù hợp
Lối sống và các biện pháp khắc phục tại nhà sau có thể giúp bạn đối phó với rối loạn nhân cách:
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất. Hello Health Group không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay các phương pháp điều trị y khoa. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Nguồn tham khảoBài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về Tâm lý học hoặc/và y học trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Rối loạn nhân cách (tiếng Anh:Personality disorders) là một tập hợp các trạng thái để biệt định các đối tượng có cách sống, cách cư xử và cách phản ứng hoàn toàn khác biệt với người thường nhưng lại không đủ các triệu chứng của một bệnh lý tâm thần đặc trưng. Khái niệm về rối loạn nhân cách là một khái niệm tiến triển và thay đổi theo sự phát triển của ngành tâm thần. J.Reich cũng như Kaplan đều đưa ra các con số là từ 6 tới 11,1% dân số có vấn đề về rối loạn nhân cách [1].
Rối loạn nhân cách là chẩn đoán có thể gây tranh cãi, căn bệnh tác động lên hầu hết thái độ và hành vi của người mắc. Vấn đề thường gặp phải là sự cản trở trong việc duy trì các mối quan hệ xã hội. Hiện nay vẫn chưa thống nhất nguyên nhân và cách điều trị. Tên gọi đã bao hàm căn nguyên của bệnh nảy sinh từ tính cách. Trên thực tế họ có hành vi và cảm xúc khác bình thường. Nhưng thế nào thì được coi là bình thường, dĩ nhiên nó thay đổi từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác và chẩn đoán cần phải căn cứ trong bối cảnh cụ thể của luật pháp, nghĩa vụ và sự mong chờ của một cộng đồng cụ thể. Ví dụ như hành vi trong thời chiến tranh không được coi cùng giá trị trong thời bình[2]. Phần lớn mọi người có thể sống cuộc sống bình thường với rối loạn nhân cách ở mức độ nhẹ, nhưng trong khoảng thời gian có sự gia tăng căng thẳng hoặc của các sức ép bên ngoài như công việc, gia đình, mối quan hệ mới, các triệu chứng của bệnh sẽ tăng lên nhanh chóng và bắt đầu gây ra những vấn đề xấu đến cảm xúc và các chức năng tâm lý[3]. Có rất nhiều dạng rối loạn nhân cách nhưng chúng đều có đặc điểm chung sau:
Chú ý
Hiện tại có rất ít nghiên cứu về nguyên nhân của bệnh rối loạn nhân cách. Một số giả thuyết được đưa ra bao gồm các vấn đề từ thời thơ ấu như bị ngược đãi, thiếu cha hoặc mẹ, sao lãng trong việc chăm sóc và bị tổn thương. Các yếu tố về thần kinh và gen như chấn thương não hay thiếu chất serotonin cũng được cho là một phần nguyên nhân. Cũng có thể là do dùng một số loại thuốc, như Ritalin chẳng hạn Hiện nay cả hai cách phân loại bệnh tật quốc tế như DSM và ICD đều có khuynh hướng tách ra khỏi các lý thuyết bệnh lý và đặt trọng tâm trên các biểu hiện lâm sàng[1].
Theo hệ thống DSM, có 3 nhóm rối loạn nhân cách. Nhóm A:Kỳ quái/lập dị/vô cảm
Editor Anh Konge là trường hợp ví dụ rõ ràng cho loại rối loạn này. Nhóm B:Kịch tính/nhiều cảm xúc/bất định
Nhóm C: Lo âu
Tiêu chuẩn chẩn đoán DSM. Rối loạn nhân cách được phân ở mục hai thuộc tài liệu chẩn đoán của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ, DSM-IV. Để chẩn đoán rối loạn nhân cách, những tiêu chuẩn đặc biệt được liệt kê dưới đây phải được đáp ứng[4]. A.Có nhận thức và hành vi lâu dài khác biệt rõ ràng với chuẩn văn hóa của cá nhân đó. Phải có ít nhất hai biểu hiện bất thường thể hiện ở các lĩnh vực sau:
B.Các mẫu ứng xử, hành vi tồn tại lâu dài cứng nhắc và ảnh hưởng rộng đến các hoạt động cá nhân và xã hội. C.Sự tồn tại dai dẳng của các mẫu dẫn đến tình trạng đau khổ thực sự hoặc làm suy giảm các chức năng xã hội, công việc hoặc các chức năng quan trọng khác. D.Các mẫu tồn tại một cách ổn định và lâu dài, đồng thời phải xuất hiện trước thời thanh niên hoặc trưởng thành. E.Các mẫu không phải là biểu hiện hay hệ quả thích hợp hơn của một loại rối loạn tâm thần nào khác. F.Các mẫu không phải là hệ quả trực tiếp từ những vấn đề thể chất hay điều kiện sức khỏe nói chung như là bị tổn thương ở đầu. Những người dưới 18 tuổi phù hợp với những tiêu chuẩn rối loạn nhân cách thường không được chẩn đoán là bị bệnh này, nhưng họ có thể được chẩn đoán các rối loạn khác có liên quan. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội không được chẩn đoán cho tất cả những người dưới 18 tuổi. Hiện tại chúng ta không có nhiều hiểu biết về những lợi ích dài hạn của các phương pháp điều trị rối loạn nhân cách. Nguyên nhân là vì có ít nghiên cứu đáng tin cậy. Các nghiên cứu đến lúc này đều chỉ ra rằng rối loạn nhân cách có thể chữa khỏi hoặc quản lý được, đặc biệt là các dạng trung tính, nhưng không điều trị đơn lẻ nào có hiệu quả với mọi trường hợp. Rối loạn nhân cách khó điều trị bởi nó là quá trình kéo dài cả đời, tỏa khắp thái độ, hành vi và cũng bởi người rối loạn nhân cách còn gặp phải nhiều vấn đề tâm lý khác. Khi quá trình điều trị đổ vỡ thì thường là do bệnh nhân không đáp ứng các yêu cầu của chương trình hơn là các dịch vụ không đáp ứng được các yêu cầu cá nhân. Ở những nước phát triển, chẳng hạn như Anh Quốc điều trị rối loạn nhân cách rất đa dạng, thích ứng với phạm vi lớn, từ các cơ sở y tế quốc dân, bệnh viện tâm thần, những bệnh viện đặc biệt hoặc trong nhà tù. Có khả năng cung cấp những nhân viên đủ chất lượng[2]. Sử dụng thuốcHầu hết các rối loạn nhân cách đều không đáp ứng với điều trị bằng thuốc và đây cũng là một cơ sở cho việc chẩn đoán phân biệt giữa rối loạn nhân cách và rối loạn khí sắc. Tuy nhiên, gần đây có sự gia tăng khuynh hướng dùng thuốc trong điều trị[5]. Điều trị với anxiolytic hoặc thuốc an thần trong giai đoạn ngắn cho trường hợp bị stress nặng. Điều trị dài hạn bao gồm thuốc an thần có thể hữu dụng đối với rối loạn nhân cách hoang tưởng và rối loạn nhân cách phân liệt. Tuy nhiên có thể thuốc có hiệu quả trong việc điều khiển nguy hiểm và stress hơn là điều trị dài hạn chính bản thân căn bệnh rối loạn nhân cách. Phân tích tâm lýĐiều trị này nhấn mạnh đến cấu trúc và sự phát triển của nhân cách. Nó hướng đến những nhân tố bên trong cho phép bệnh nhân hiểu được những cảm xúc của mình. Nhưng nó cũng có những hạn chế chẳng hạn nó tỏ ra kém hiệu quả đối với rối loạn nhân cách chống xã hội. Liệu pháp nhận thức và hành viLiệu pháp nhận thức và hành vi là tên gọi chung cho các trị liệu sử dụng phương pháp nhận thức, hành vi biện chứng, tâm lý trị liệu, phân tích nhận thức. Phần lớn liệu pháp hành vi nhận thức hướng tới những khía cạnh đặc biệt như suy nghĩ, cảm xúc, hành vi và thái độ, không phải toàn bộ tình trạng rối loạn nhân cách của người bệnh. Nghiên cứu chỉ ra rằng phương pháp này có hiệu quả khi chỉ cần điều trị trong thời gian ngắn nhưng một số khác lại nói rằng nó chỉ có hiệu quả khi điều trị dài hạn. Dựa vào cộng đồngLiệu pháp cộng đồng đưa người bệnh vào cuộc sống cộng đồng trong vài tháng. Biện pháp này phải là sự tự nguyện từ phía bệnh nhân và trách nhiệm cần được chia sẻ bởi cả bệnh nhân và các nhân viên. Thành viên của khóa điều trị cộng đồng được khuyến khích nói về cảm xúc của họ và đặc biệt là cảm nhận của họ về hành vi của người khác. Họ cũng được khuyến khích nghĩ về hành vi của họ tác động đến người khác như thế nào. Các kết quả của liệu pháp cộng đồng vần còn đang được nghiên cứu kỹ.
Sách: Tủ thuốc cho linh hồn Lưu trữ 2014-08-08 tại Wayback Machine - tác giả Osho, hoặc liên kết tải sách trực tiếp: Tủ thuốc cho linh hồn (tiếng Việt)
|