Thách thức lớn nhất ảnh hưởng đến quá trình xây dựng ll vtnd hiện nay là gì

Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân bảo vệ Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

01/12/2012

TS. Thượng tướng LÊ HỮU ĐỨC

Uỷ viên BCHTƯ Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới - là một nhà quân sự lỗi lạc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm tư tưởng quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát triển những di sản tư tưởng quân sự độc đáo, sáng tạo của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng LLVT nhân dân, xây dựng QĐND gắn với tư tưởng chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc (BVTQ).

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng việc xây dựng quân đội công nông. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đã giải quyết một loạt vấn đề then chốt về tư tưởng lý luận và lãnh đạo xây dựng LLVT cách mạng thành công trong thực tiễn. LLVT, nòng cốt là QĐND đã hoàn thành nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó trong thời kỳ khởi nghĩa vũ trang; tiếp đó không ngừng lớn mạnh toàn diện, trở thành lực lượng chiến đấu trụ cột, cùng với lực lượng toàn dân đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng LLVT cách mạng Việt Nam, xây dựng Quân đội của dân, do dân và vì nhân dân mang bản chất cách mạng và khoa học sâu sắc, bởi tư tưởng đó của Người có nguồn gốc lý luận và thực tiễn vô cùng phong phú. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với LLVT nhân dân, ngay từ những ngày đầu thành lập LLVT, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta cử đồng chí Phùng Chí Kiên, Uỷ viên Trung ương Đảng, về chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và đội du kích Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được mang tên mới Cứu quốc quân cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước. Trước phong trào quần chúng ở Bắc Sơn - Vũ Nhai lên cao, cuối tháng 6/1941, thực dân Pháp mở đợt càn quét lớn vào căn cứ cách mạng. Ngày 27/7/1941, đồng chí Phùng Chí Kiên bị địch phục kích giết hại. Trước tổn thất này và nhằm duy trì tiếng súng Bắc Sơn - Vũ Nhai để cổ vũ phong trào toàn quốc kháng chiến, ngày 15/9/1941, Đội Cứu quốc quân thứ hai được thành lập. Tháng 10/1941, Trung ương Đảng cử thêm cán bộ tăng cường và chỉ thị cho Cứu quốc quân giữ vững lực lượng, bí mật gây cơ sở, mở rộng căn cứ ra ngoài vòng vây địch. Đầu tháng 11/1941, lễ thành lập Đội du kích Pác Bó (Cao Bằng) được tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khai mạc lễ thành lập Đội. Người căn dặn: Đội du kích Cao Bằng được thành lập phải làm tốt các nhiệm vụ đã đề ra, có cái làm trước, có cái làm sau. Phải qua công tác mà phấn đấu, rèn luyện. Phải đoàn kết, chấp hành kỷ luật đội cho tốt, khiêm tốn học hỏi, giúp đỡ nhau trong học tập, trong công tác cũng như trong đời sống, sinh hoạt hàng ngày. Đối với nhân dân, đội phải như cá với nước, nghĩa là đội như cá, nhân dân như nước.

Sau một thời gian hoạt động (cuối năm 1941 đến tháng 7/1943), đội du kích Cao Bằng đã thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Đội đã khống chế được bọn thổ phỉ, bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân; hạn chế được sự lùng sục, càn quét của địch, bảo vệ các cơ sở cách mạng; phân hoá được một bộ phận lực lượng đối phương ngả theo cách mạng. Đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao phó. Đó là thông qua hoạt động vũ trang tuyên truyền, Đội làm nòng cốt trong việc xây dựng LLVT nhân dân, hỗ trợ các đội vũ trang châu, tổng, các đội tự vệ chiến đấu cấp xã ở các huyện Hà Quảng, Hoà An và Nguyên Bình - Cao Bằng và một số địa phương, căn cứ địa cách mạng kháng chiến khác; đồng thời, Đội đã hỗ trợ cho phong trào quần chúng phát triển mạnh ở Cao Bằng. Khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, 6 cán bộ và đội viên du kích Cao Bằng được tuyển chọn vào đội quân chủ lực đầu tiên. Cũng từ Đội du kích Pác Bó, thông qua hoạt động cách mạng, công tác và chiến đấu, 4 cán bộ và đội viên của Đội (bằng 1/3 số người của đội)về sau đã trở thành các tướng lĩnh quan trọng của QĐND Việt Nam (Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Bằng Giang).

Giữa tháng 10/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các khu và đồng bào toàn quốc đề nghị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc để thành lập chính quyền cách mạng Trung ương. Với tầm nhìn chiến lược, Người thấy thời cơ tổng khởi nghĩa đang đến gần: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa”. Người sớm nhận thấy vai trò chiến lược của bộ đội chủ lực và khi đã có đủ điều kiện, Người quyết định thành lập Đội quân chủ lực đầu tiên. Đầu tháng 12/1944, Người triệu tập đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Vũ Anh đến Pác Bó. Người chỉ định đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm công việc chuẩn bị thành lập Đội quân chủ lực đầu tiên. Chấp hành chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp vạch kế hoạch thành lập Đội Việt Nam giải phóng quân và báo cáo với Người, Người thông qua kế hoạch, thêm hai chữ tuyên truyền vào tên Đội Việt Nam giải phóng quân. Khi tiễn đồng chí Võ Nguyên Giáp trở về tổng Hoàng Hoa Thám để thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người căn dặn: “Nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng là ở Tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình”[1].

Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời, thống nhất các LLVT trong cả nước. Lần đầu tiên, một quân đội kiểu mới do Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giáo dục đã ra đời. Từ đó, một quân đội cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân, đã không ngừng lớn mạnh và lập nên biết bao kỳ tích trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, trong các cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc, suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ của thế kỷ XX; trong quá trình xây dựng và BVTQ Việt Nam ngày nay.

68năm qua, từ những chiến công đầu Phai Khắt, Nà Ngần đến Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, từ khí thế quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của quân và dân Hà Nội mở đầu ngày toàn quốc kháng chiến tháng 12/1946, đến trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ năm 1954 và chiến thắng trong chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12 năm 1972 - quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ - QĐND cùng các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước đã trưởng thành vượt bậc, trở thành một quân đội cách mạng chính quy, lập nên nhiều kỳ tích lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Thắng lợi của quân đội và nhân dân ta không những đã làm phá sản mưu đồ quay trở lại thống trị Việt Nam của chủ nghĩa thực dân mà còn cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên, mở đầu cho sự sụp đổ hệ thống thuộc địa trên toàn thế giới.

Từ những chiến công mở đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lần thứ hai đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, một lần nữa QĐND Việt Nam lại lập nên những chiến công vang dội thế giới, giành độc lập tự do toàn vẹn, thống nhất Tổ quốc, mở đầu cho thời kỳ mới, thời kỳ cả nước ta ra sức xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là những mốc son chói lọi được ghi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc, nó đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng và phát triển vượt bậc của quân đội ta.

Nhìn lại chặng đường lịch sử mà QĐND Việt Nam đã trưởng thành, nh­ững nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới - quân đội của dân, do dân và vì nhân dân chiến đấu đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo và xây dựng - vẫn tuân thủ theo những nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, “Quân sự phục tùng chính trị, quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”[2]. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sự trưởng thành và chiến thắng của LLVT nhân dân và QĐND. Có sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn luôn lấy việc xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp, thường xuyên tăng cường hiệu lực công tác Đảng - công tác chính trị. Khi đã có Nhà nước, trở thành một bộ phận của Nhà nước, Quân đội ta luôn tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ chế quản lý của Nhà nước với quốc phòng không làm suy yếu sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp, về mọi mặt của Đảng với quân đội; vì quân đội là một tổ chức quân sự, khác với các tổ chức khác trong bộ máy Nhà nước. Đảng trực tiếp lãnh đạo Nhà nước đồng thời trực tiếp lãnh đạo quân đội.

Thứ hai,theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về nguyên tắc tổ chức quân đội: Phải có tổ chức vững chắc và nghiêm mật, nếu không có tổ chức thì không phải là một đội quân cách mạng, không thể đánh thắng được,[3] kết cục sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ và tan rã. Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xác định đúng đắn mối quan hệ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng vào xây dựng quân đội cách mạng, Người nêu rõ, có tổ chức mạnh mới có con người mạnh. Con người mạnh làm cho tổ chức mạnh, Đảng bộ trong quân đội làm nòng cốt và hạt nhân lãnh đạo, vừa có hệ thống lãnh đạo, vừa có hệ thống chỉ huy, xác định rõ lãnh đạo là tập thể, chỉ huy là trách nhiệm cá nhân. Quân đội phải có kỷ luật sắt, “quân lệnh như sơn” đi đôi với thực hiện dân chủ, phê bình, tự phê bình từ dưới lên, chống quan liêu, quân phiệt, độc đoán, chống tự do vô kỷ luật.

Thứ ba, Quân đội ta là Quân đội của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, có thái độ chính trị đúng đắn trước những mối quan hệ chính trị cơ bản: Với nhân dân, Quân đội ta là người phục vụ trung thành, cùng nhân dân bảo vệ độc lập chủ quyền, chế độ xã hội, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân. Với đất nước, Quân đội ta là công cụ để bảo vệ độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Với bầu bạn, Quân đội ta thấm nhuần tinh thần quốc tế vô sản, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hoà bình thế giới. Với nội bộ, thực hiện toàn quân một ý chí, kỷ luật nghiêm minh, dân chủ, bình đẳng về chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một QĐND do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”[4].

Thứ tư, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong xây dựng quân đội, phải lấy việc bồi dưỡng xây dựng con người là chính. Người nói: “Người trước súng sau”. Chiến lược trồng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên một đội ngũ cán bộ quân đội trung thành, có trí tuệ, đápứng yêu cầu khắc nghiệt của đấu tranh và mọi thử thách của cách mạng. Người còn nói: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém[5], cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[6]. Đối với cán bộ trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “trí, dũng, liêm, trung”[7]. Người đặt trí lên hàng đầu. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ quân sự trước hết phải là người có trí tuệ, không ngừng trau dồi trí thức, nâng cao trí tuệ mới hoàn thành được nhiệm vụ. Người cán bộ phải có giác ngộ chính trị hơn quần chúng, vì vậy phải có trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác-Lênin, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật quân sự; nắm vững đường lối chính sách của Đảng mới tự giác phấn đấu theo đường lối cách mạng mà Đảng đã vạch ra, có niềm tin thắng lợi, dựa vào căn cứ khoa học, có lý luận để thuyết phục quần chúng, có khả năng tổng kết thực tiễn, phát huy sức sáng tạo của quần chúng để góp phần cụ thể hoá, bổ sung đường lối chủ trương của Đảng.

QĐND Việt Nam đã đánh thắng các quân đội nhà nghề “hai đế quốc to”, là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trước hết là thắng bằng trí tuệ, bằng tài thao lược, kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, tiếp thu có chọn lọc nghệ thuật quân sự của nhân loại, có phương pháp xem xét đúng, hiểu rõ sức mạnh quân đội của các nước đế quốc, sáng tạo cách đánh tài giỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, quân đội cách mạng phải: nghiên cứu cách đánh giặc để có một lối đánh tài giỏi thì trăm trận trăm thắng. Nếu thiếu nghiên cứu tìm hiểu tình hình khả năng ta và địch một cách tỉ mỉ để định ra mục đích và cách đánh hợp lý thì sẽ mắc nhiều khuyết điểm. Người căn dặn cán bộ phải chịu khó học tập, không ngừng nâng cao trí tuệ, văn hoá để có phương hướng đúng cho việc trau dồi đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc cán bộ học ở trường, ở sách vở và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng đều rất quan trọng. Theo Người, học phải đi đôi với hành, lời nói phải đi đôi với việc làm. Người coi trọng quá trình xây dựng LLVT nhân dân, xây dựng QĐND phải là quá trình rèn luyện lâu dài trong chiến đấu với kẻ thù, trong đấu tranh chính trị, trong vận động quần chúng, trong xây dựng nâng cao sức mạnh chiến đấu. Bản lĩnh chính trị, bản lĩnh chiến đấu của mỗi quân nhân trong quân đội chẳng những là sự tích luỹ một hàm lượng trí tuệ, mà còn là kết quả của sự đấu trí giữa ta và địch. Hơn nửa thế kỷ xây dựng và chiến đấu, quân đội ta đã bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ quân sự tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, giỏi thao lược, đánh thắng mọi kẻ thù. Trong QĐND Việt Nam, có nhiều cán bộ cao cấp từ công nhân, nông dân, trí thức cách mạng trưởng thành lên. Đó là một thành công lớn của Đảng và Bác Hồ.

Chiến lược trồng người trong quân đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên một hình tượng đẹp, đó là danh hiệu Anh bộ đội Cụ Hồ được nhân dân tặng cho người chiến sĩ QĐND, một biểu tượng của con người mới, vừa mang phẩm chất truyền thống của dân tộc, vừa mang nhân cách và tầm vóc của người anh hùng thời đại và có giá trị nhân văn xã hội chủ nghĩa. 68 năm qua, Quân đội ta được xây dựng và chiên đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến tranh giải phóng dân tộc và BVTQ. Những năm hoà bình, Quân đội ta là một lực lượng rất quan trọng đảm bảo sự ổn định chính trị và an toàn xã hội của nước nhà. Ngày nay, trong bối cảnh mới, đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Quân đội ta, đất nước ta đang đứng trước vận hội mới với những thách thức mới.

Đảng ta đã xác định xây dựng Tổ quốc và BVTQ XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược.Nhiệm vụ của Quân đội ta rất nặng nề, phải bảo vệ được hoà bình, góp phần tạo môi trường ổn định để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, lợi ích quốc gia, chống lại các thế lực thù địch với các thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ và sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch. Chức năng cơ bản của quân đội là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và CNXH, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ tính mạng tài sản, quyền làm chủ của nhân dân.

Trước những biến chuyển to lớn, phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, trước vận hội mới và thách thức mới, QĐND Việt Nam - Quân đội của dân, do dân và vì nhân dân vẫn là một trụ cột, là lực lượng kiên định đi theo con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn. Quân đội ta phải tiếp tục xây dựng nâng cao trình độ về mọi mặt, ngang tầm với nhiệm vụ, trước hết và cơ bản nhất là trình độ chính trị.

Để cán bộ quân đội có nhãn quan chiến lược mới, hiểu rõ tình thế của đất nước, đặc điểm, tính chất của cuộc đấu tranh trong điều kiện mới nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, cần khẳng định vị trí chính trị của QĐND, chủ động trong mọi tình huống, góp phần tích cực, có hiệu quả vào việc ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngăn chặn và loại trừ những nguy cơ do các thế lực thù địch gây nên. Do đó phải nắm vững nguyên tắc lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, vừa kế thừa, vừa đổi mới nội dung công tác chính trị, tư tưởng, nhận thức rõ sự thống nhất giữa BVTQ và bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ công cuộc hòa bình của nhân dân, ngăn ngừa không để xảy ra chiến tranh, đồng thời sẵn sàng đánh bại các loại hình chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch.

Trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ, đòi hỏi quân đội phải được xây dựng với chất lượng cao, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhiệm vụ đó đặt ra yêu cầu đầu tư hơn nữa vào công tác huấn luyện bộ đội, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chỉ huy giỏi, sáng tạo cách đánh và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học quân sự, vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại mới, góp phần vào việc đổi mới phong cách lãnh đạo chỉ huy QĐND. Cần thiết phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật về xây dựng LLVT nhân dân, xây dựng QĐND, củng cố nền quốc phòng toàn dân BVTQ; tiếp tục thể chế hoá đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng về xây dựng quân đội; ban hành hệ thống điều lệnh, điều lệ về các hoạt động của QĐND, tăng cường pháp chế XHCN trong quân đội, giải quyết tốt nhiệm vụ xây dựng QĐND trong Nhà nước pháp quyền do Đảng lãnh đạo.

Những vấn đề trên đang đặt ra trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta yêu cầu tiếp tục học tập, tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng LLVT nhân dân, xây dựng QĐND Việt Nam, góp phần tăng cường nền quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, làm cho Quân đội ta mãi xứng đáng với niềm tin yêu tin cậy của Đảng, của nhân dân./.


[1] Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb. QĐND, Hà nội, 1969, tr.135.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H.,2000, tr.318.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.470.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, H.,2000, tr.350.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia , H.,2000, tr.240.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia , H.,2000, tr.269.

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.,2000, tr.330.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24(232), tháng 12/2012)