I. CĂN CỨ PHÁP LÝ– Luật Dân quân tự vệ số 48/2019/QH14 Show II. KHÁI NIỆM DÂN QUÂN TỰ VỆTheo khoản 1 điều 2 Luật Dân quân tự vệ, Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, được tổ chức ở địa phương gọi là dân quân, được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế gọi là tự vệ. Thành phần của Dân quân tự vệ bao gồm: – Dân quân tự vệ tại chỗ. – Dân quân tự vệ cơ động. – Dân quân thường trực. – Dân quân tự vệ biển. – Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế. Phân tích vị trí chức năng nhiệm vụ của dân quân tự vệ theo quy định pháp luật1. Dân quân tự vệ là gì?– Tại Khoản 1 Điều 2 Luật dân quân tự vệ có đưa ra khái niệm về dân quân tự vệ, theo đó: Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác, được tổ chứcởđịa phương gọi là dân quân, được tổ chức ở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là tự vệ. Thành phần của Dân quân tự vệ bao gồm: – Dân quân tự vệ tại chỗ. – Dân quân tự vệ cơ động. – Dân quân thường trực. – Dân quân tự vệ biển. – Dân quân tự vệ phòng không, pháo binh, trinh sát, thông tin, công binh, phòng hóa, y tế. vị trí, vai trò của lực lượng dân quân, tự vệBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.72 KB, 12 trang ) A, ĐẶT VẤN ĐỀ vệ địa phương, cơ sở, góp phần quan trọng vào thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa . Đánh giá vị trí, vai trò của lực lượng dân quân, tự vệ, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ Quốc, vô luân kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lược lượng đó, bức tường đó, thì kẻ địch nào cũng phải tan rã “ . Đặc biệt trong tình hình phức tạp hiện nay, dân quân tự vệ càng có vai trò quan trọng 2 B, NỘI DUNG 1. Nguyên tắc thứ nhất: Vững mạnh, rộng khắp, coi trọng chất lượng là chính Chăm lo xây dựng tổ chức DQTV vững mạnh về chính trị Việc lựa chọn kết nạp DQTV phải duy trì nghiêm ngặt chế độ xét duyệt về chính trị và theo hướng dân bàn, dân cử, dân nuôi, dân kiểm tra, dưới sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời phải tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ nòng cốt chính trị trong DQTV, lựa chọn đảng viên trẻ, đoàn viên, thanh niên, quân nhân phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành tham gia DQTV. Thường xuyên phát hiện, bồi dưỡng đối tượng Đảng trong DQTV, thanh niên sẵn sàng nhập ngũ để đẩy mạnh công tác phát triển Đảng nhằm nâng cao tỷ lệ đảng viên trong lực lượng DQTV và làm nguồn cho đội ngũ cán bộ cốt cán sau này. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục bản chất giai cấp công nhân, tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng cho DQTV: Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, phải đổi mới, nâng cao chất lượng, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục chính trị cho DQTV. Có thể bắt đầu từ những vấn đề chính trị bức xúc hiện nay đang tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày của họ mà giải quyết những vấn đề đó bắt buộc phải tư duy qua việc nhận thức, hiểu biết về đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; qua các khâu trung gian cần thiết, dẫn dắt mọi người nhận biết một cách tự giác, làm cho họ tự lý giải được những vấn đề nảy sinh hàng ngày, hàng giờ. 3 Nâng cao trách nhiệm và năng lực,trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác chính trị đối với lực lượng DQTV. Để tiến hành tốt công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) ở các đơn vị DQTV; người chính trị viên (CTV) DQTV phải nắm vững Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Pháp lệnh DQTV; chức trách, nhiệm vụ CTV; nguyên tắc tiến hành CTĐ, CTCT, các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng uỷ quân sự các cấp, mệnh lệnh của người chỉ huy, hướng dẫn của CTV và cơ quan chính trị cấp trên, nắm vững nhiệm vụ và tình hình mọi mặt của DQTV, tình hình quốc phòng- an ninh ở địa phương, cùng với người chỉ huy nghiên cứu, quán triệt nhiệm vụ, đánh giá tình hình, đề xuất với Đảng uỷ (Chi uỷ) chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác quân sự ở địa phương, cơ sở, có kế hoạch phân công tổ chức thực hiện chủ trương đó. Thời gian tập trung học tập chính trị, huấn luyện quân sự hàng năm cho cán bộ, chiến sỹ dân quân tự vệ được quy định như sau: Lực lượng tại chỗ từ 5 đến 7 ngày; Lực lượng cơ động, binh chủng chiến đấu là 7 ngày; Các phân đội làm nhiệm vụ thường trực sẵn sàng chiến đấu là 10 ngày; Cán bộ chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và cán bộ chuyên trách tự vệ các doanh nghiệp Nhà nước từ 10 đến 15 ngày; Cán bộ chỉ huy lực lượng tự vệ ở các cơ quan Nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị-xã hội là 5 ngày. 4 Khi có yêu cầu cần thiết hoặc khi có chiến tranh, thời gian huấn luyện cho các đối tượng nói trên có thể kéo dài hơn do Chính phủ quy định. Xây dựng và bố tri lực lượng đều khắp trên các địa bàn nông thôn, thành thị Sẵn sàng ứng trực, chiến đấu trị an Ở phường, xã, dân quân được tổ chức thành 1 tiểu đội thường trực, 1 trung đội cơ động trong đó có các phân đội binh chủng; mỗi tổ dân phố có 1 tiểu đội hoặc một phân đội chiến đấu tại chỗ. Còn tại các cơ quan, DN, tự vệ được tổ chức theo các ban chiến đấu, trực sản xuất. Trong các tiểu đội, trung đội, DQTV được chia thành nhiều bộ phận chuyên nghiệp như: thường trực, cơ động, chiến đấu tại chỗ, công binh, y tế, quân báo, trinh sát, thông tin để sẵn sàng vào vị trí chiến đấu khi có tình huống xảy ra. Đối với DQTV bận rộn nhất là mùa mưa bão. Cùng với dự bị động viên, họ sẽ là lực lượng chính, trực chiến 24/24 giờ khi có báo bão. Cơn bão số 6, số 7 vừa qua, hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc đều huy động DQTV tại các xã, các cơ quan, xí nghiệp, DN tham gia trực. Nơi nào có mưa lũ xảy ra, họ cùng tham gia cứu hộ, cứu nạn. Dân quân ở phường, xã kết hợp với CA, thanh niên để tham gia bảo đảm ATGT, trật tự địa bàn; phòng cháy, chữa cháy, phòng chống lụt bão. Cái khó lớn là đối với lực lượng dân quân, vì phần lớn lực lượng là nông dân, buôn bán nhỏ tham gia nên trình độ văn hóa còn thấp, nhất là tại các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới... Khả năng nắm bắt, tiếp thu văn bản pháp luật và ứng xử trước các tình huống xảy ra còn chậm và kém. Hầu hết tại các địa phương, chế độ chính sách, phụ cấp dành cho DQTV là chưa có. Một số cơ 5 |