Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024

Trước hết xin được cảm ơn võ sư Nguyễn Ngọc Nội, một người hết sức tâm huyết với môn phái Vĩnh Xuân. Ông và các học trò đã dành rất nhiều “tâm”, “sức” để tìm kiếm thông tin về gia đình sư tổ Nguyễn Tế Công (các chi phái Vĩnh/Vịnh Xuân ngoài bắc đã không có được tin tức của gia đình Sư tổ kể từ khi người vào nam năm 1954), để bây giờ các môn sinh Vĩnh Xuân ngoài bắc có thể đến thăm và thắp nén hương cho người mỗi khi có dịp ghé thăm. Để chúng ta có không phải “Thắp nén hương ở ban thờ mà không biết khấn Sư tổ ở đâu”.

  • Sư tổ Vĩnh Xuân Việt Nam: Nguyễn Tế Công (là tên chính thức được gia đình ghi trên bia mộ). Trong sách báo, ông còn có các tên là Nguyễn Tế Vân tức Yuen Chai-Wan, Tế Mặt rỗ tức Dao Pei Chai, Nguyễn Lão Tứ, Lương Vũ Tế …)
  • Sinh năm 1877 tại Phật Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc
  • Mất chiều ngày 23 tháng 6 năm 1959 (tức 18/5 Kỷ Hợi)

(Sư tổ Nguyễn Tế Công qua đời sau 2 ngày lâm bệnh và được an táng tại nghĩa trang Quảng Đông, Chợ Lớn. Nay thi hài của sư tổ đã được chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu tại Bình Dương)

  • Địa chỉ mộ của Sư tổ và Sư tổ mẫu
    Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024
    Nguyễn Tế Công (số mộ 1560)
    Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024
    Đàm Thiếu Quỳnh (số mộ 1563)

Nguyễn Tế Công: Số mộ 1560 – Khu 2 Đàm Thiếu Quỳnh: Số mộ 1563 – Cũng cùng khu 2 Nghĩa trang Lái Thiêu – Bình Dương, cách trung tâm TP Hồ Chí Minh độ 25 km. Đây là khu mộ của người Hoa, cho nên trên bia mộ đều ghi bằng tiếng Trung Quốc.

  • Hướng dẫn đường đi:

- Dùng bản đồ: Đi qua ngã tư Bình phước, thẳng Quốc lộ 13 (chính là Đại lộ Bình dương), đến Ngã tư Cầu Ông Bố thì rẽ phải, (nếu đi đường qua ngã năm Lái thiêu, thì đến ngã tư Cầu Ông Bố phải đi thẳng) gặp ngay Trạm thu phí, qua trạm khoảng 1km, nhìn sang tay trái sẽ thấy nghĩa trang Lái thiêu có cổng ngay mặt đường, đối diện với một nghĩa trang công giáo (Đây cũng là đường vào Khu CN Sóng thần, nên có thể hỏi đường vào Sóng Thần sẽ có nhiều người biết). - Đi thẳng vào trong nghĩa trang Lái Thiêu, sau đó rẽ bên trái vào khu 2, sẽ đến được mộ sư tổ và sư mẫu tổ (tốt nhất nên hỏi bảo vệ mộ sư tổ Nguyễn Tế Công ở đâu, bảo vệ sẽ dẫn đi, như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian vì các ngôi mộ đều ghi bằng tiếng Trung Quốc). Lưu ý: các bạn cũng có thể tham khảo địa chỉ mộ của sư tổ Nguyễn Tế Công qua đường link sau:

Phép dính tay (chisao) của Vịnh Xuân Phái

Posted on Tháng Năm 23, 2009 by vinhxuanquyen

Xin giới thiệu với bạn đọc bài viết về “Phép dính tay (Chisao) của môn Vịnh Xuân Thiếu Lâm Phật Sơn”, do Lý Tiểu Long viết, được đăng trên tại Tạp chí võ thuật “Black Belt”, năm 1969. Ngoài ra các bạn cũng có thể tham khảo thêm đoạn video clip Lý Tiểu Long tập niêm thủ với tài tử điện ảnh người Mỹ James Coburn.

“Chi sao”:thuật dính tay là phương pháp độc đáo để tập luyện của phái Vịnh Xuân, môn võ Nam phái, do ông Diệp Vấn là Chưởng môn. Sự thực có nhiều cách để tập đánh tay “chi sao”. Có cách để lấy kỹ thuật sắc bén, có cách để lấy thủ pháp đúng của môn Vịnh Xuân. Có người coi “chi sao” như một cách luyện cho sức khỏe, có người học để lấy bén nhậy (linh tay) về xúc giác (linh giác). “Chi sao” là tất cả cái đó và hơn thế nữa. Đây là ý riêng của tôi hiểu về “chi sao”. Trong những năm tôi dạy “chi sao”, tôi coi nó như là một cách tập về vừa thế, vừa thân, nhấn mạnh về khí liên tục (Constant energy flow). Khí liên tục không được nói tới trong phép “chi sao” của Vịnh Xuân. Tôi phải nhấn mạnh ở đây là vì tôi dạy dùng khí liên tục là để giúp cho có hiệu lực hơn là ứng dụng được, không phải coi như một sức huyền bí bên trong nào đó như nhiều ông thày muốn cho trò tưởng. Để cho dễ hiểu, chúng ta hãy thử tưởng tượng rằng “A” có một dòng nước trắng chảy ra từ cánh tay, trong khi “B” có một dòng nước đen cũng chảy ra hòa với dòng nước của “A”. Hễ cả “A” và “B” cùng cho dòng nước chảy ra, khi hai dòng đó không lấn vào nhau. Với khí liên tục đó, tất cả các động tác đều thấm nhuần những động tác tâm lý. Nếu có ai ép vào cánh tay một người có khí đó, người ấy sẽ cảm thấy một luồng khí bắt vào. Không phải là một sức dật lên để chống lại, mà cảm giác ấn vào một dòng nước phun mạnh. Cánh tay ấy nó sung sức, sống động, có ý hướng và đều đặn, nói cách khác, rất thích nghi cho việc phải làm. Nhìn hình “A”, nếu dòng nước đen ngòm một sát na thì dòng nước trắng sẽ lấn được ngay. Tựa như luồng khí này chảy tới một tảng đá và lùa vào các khe, các góc của nó.

Trong võ Vịnh Xuân, có tập một tay và hai tay bằng cách xoắn tay nhịp nhàng ấy, người tập luyện lấy khí lực. Người tập phải giữ cho liên tục và tràn vào mọi khe hở có thể được trong lúc xoay chuyển. Càng tập lâu thì lực càng tinh vi và càng len vào các khe nhỏ được. Muốn tập “chi sao” phải có một ông thầy lành nghề, dần dắt từng bước vào tiếp cho người học trò cái khí lực thích nghi, giống như một cái máy phát điện vào bình điện. Với người mới tập “chi sao” có thể thành một trận đấu giật giật, vật lên vật xuống, đánh sang tả sang hữu. Tay như thế không những trở ngại cho sự hiểu biết, mà còn đưa đến chỗ bị phản công ngay nếu gặp đối thủ sắc sảo. Khí lực đưa ở tay ra “đúng” thì giống như nước chảy qua một ống nước. Nếu nước cứ tắt lại mở, lại tắt lại mở (gián đoạn) thì các ống nước sẽ giật. Từ cái thế “chi sao” người tập cố đánh trúng nhau. Với dồn khí, kẻ đó sẽ “hóa giải” sức đối phương, giống như một con thuyền dập dềnh lướt sóng, để mượn sức địch mà bổ sung cho đòn trả. Quan niệm như thế thì hai tay người thực sự là hai phần nửa của một thế. Trừ trường hợp các thế một tay, tất cả các thế “chi sao” khác đều theo phép khuỷu tay ở trong. Thế này quan trọng trong quyền Vịnh Xuân vì nó như một cái đệm, hoặc là một sức phụ, để gạt, nếu cổ tay không kịp nhận ra đối phương tăng thêm thành công lực. “ Khuỷu tay ở trong” là nhãn hiệu của môn Vịnh Xuân. Khuỷu tay là điểm bất động không phải là điểm chết. Trong khi cẳng tay và bàn tay thì mềm dẻo khi thay đổi thế khác. Vì thế, hai tay trong phép “chi sao” phải mềm nhưng không lún, mạnh mẽ cương quyết không cứng rắn. Người ta có thể xếp Vịnh Xuân vào loai nhu quyền, tuy tôi không tin như vậy. Dù sao, so với các nhu quyền khác thì Vịnh Xuân tích kiệm động tác hơn. Tất cả các thủ pháp dùng trong “chi sao” làm cho nó có rất nhiều cách dùng. Lúc tấn công, Vịnh Xuân dùng sức thắng đánh về phía trước. Lúc thủ, Vịnh Xuân dùng đòn gạt cong và cũng dùng đòn thẳng để lấn. Người đánh quyền Vịnh Xuân giữ hạnh tâm để cho đối phương chuyển xung quanh. Người ấy cũng được tập tránh các động tác thừa, chỉ đánh thẳng từ giữa ra và vừa đủ từ ngoài vào với trung tâm giữ kín bằng khuỷu tay. Cách tập tay của Vịnh Xuân với luyện khí, cũng góp vào luyện tập toàn thể cho võ sĩ, nhưng không nên coi là toàn bị, mà chỉ là phương tiện đi đến mục đích. Có người tập tưởng lầm rằng đánh tay “chi sao” là một phương pháp đánh. Không phải vậy đó chỉ là môt cách tập dẫn dắt tới một lối riêng, nghĩa là tới các chiêu thức đúng của Vịnh Xuân. Sự nghiên cứu đường và góc nhọn và nhất là sự luyện dùng đòn khí công. Nguồn: Vĩnh Xuân Nội Gia Tác giả: Lý Tiểu Long (Bruce Lee) Người dịch: Giáo sư Trần Văn Từ Người hiệu đính: Võ sư Hồ Hải Long

Vĩnh Xuân Việt Nam: Những điều suy nghĩ

Posted on Tháng Năm 21, 2009 by vinhxuanquyen

Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024

Võ sư Nguyễn Ngọc Nội đánh mộc nhân

Như có cơ duyên, tạp chí Ngày Nay có rất nhiều bài viết về môn phái Vĩnh Xuân ở những góc độ khác nhau, của người trong môn, của người ngoài môn. Là một người trong môn phái Vĩnh Xuân, tôi rất trân trọng tạp chí Ngày Nay trước những gì mà tạp chí đã giành cho môn phái Vĩnh Xuân. Trong số Tết Ất Dậu (No. 2 + 3 + 4, từ 15/1 – 30/2/2005) tạp chí Ngày Nay đã đăng tải một số bài viết về môn Vĩnh Xuân, trong đó đã mạnh dạn đưa ra hình ảnh “thực trạng và những vấn đề tiềm ẩn” của môn Vĩnh Xuân Việt Nam dưới góc nhìn của tác giả Nguyễn Giang. Là một võ sư của môn phái Vĩnh Xuân, tôi thấy cũng cần đưa ra một số ý kiến trên những vấn đề “thực trạng” và “tiềm ẩn” mà tạp chí Ngày Nay đề cập đến. Tất nhiên, đây hoàn tòan là những suy nghĩ cá nhân, song trên góc độ là một người có tâm huyết với môn phái. Về tên gọi và lịch sử môn phái Tôi nghĩ đã đến lúc, không nên tranh luận nhiều về tên gọi. Ai đã gọi là Vĩnh Xuân hãy cứ tiếp tục gọi là Vĩnh Xuân, ai đã gọi là Vịnh Xuân hãy cứ tiếp tục gọi là Vịnh Xuân. Sư phụ của ta gọi sao, ta hãy gọi đúng như vậy. Tất cả đều có lý của mình. Dù gọi là Vĩnh Xuân hay Vịnh Xuân thì đây đều là trong môn phái do sư tổ sáng lập là Ngũ Mai Sư Bá. Có như vậy, chúng ta mới không thấy xa nhau vì một tương lai của môn phái do Sư tổ Ngũ Mai Sư Bá sáng lập. Cho đến nay, về cơ bản chúng ta chưa có những tư liệu xác thực về lịch sử môn phái, mà hầu hết là các truyền thuyết. Một thực tế khó phủ nhận là những điều kể lại bị phụ thuộc rất nhiều vào người kể tại thời điểm kể lại như: sự ghi nhớ trước đây khi được nghe kể; tư duy kể lại; khả năng diễn đạt. sức khỏe lúc kể, v.v và v.v. Tôi chắc rằng không ai dám khẳng định sự truyền lại là 100% những điều đã được nghe (chỉ có thể nói là “cơ bản như vậy”). Do đó, các nhánh đã đưa ra các phả hệ theo góc độ của nhánh mình, tôi nghĩ chúng ta cùng nên tôn trọng. Ngay như thời điểm Sư tổ Nguyễn Tế Công sang Việt Nam (là thời điểm gần ta nhất) cũng có những tư liệu khác nhau. Người cho là từ 1907, người cho là 1939. Ai đúng ai sai đây ? Cơ sở đánh giá ở đâu? Nhân đây tôi cũng xin nói lại một tìm hiểu về Sư tổ Nguyễn Tế Công của một người có nhiều nghiên cứu về võ học, đã từng làm công tác phụ trách về võ thuật, đã được học nhiều môn võ, trong đó có hơn một năm học sư phụ tôi (Cố võ sư Trần Thúc Tiển). Tuy nhiên việc học sư phụ tôi chỉ là tìm hiểu, nghiên cứu. Tóm tắt tìm hiểu về Sư tổ Nguyễn Tế Công như sau: Vào những năm 1930, Sư tổ Nguyễn Tế Công là người rất giỏi võ ở Trung Quốc. Lúc này Người (Sư tổ Nguyễn Tế Công) ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Năm 1937, người Nhật chiếm đóng vùng Đông Bắc Trung Quốc, biết được Sư tổ Nguyễn Tế Công là người giỏi võ, đã cho mật vụ đến bắt. Hay tin, Người đã bỏ trốn xuống phía Nam (Phật Sơn – Trung Quốc). Một thời gian sau, người Nhật dò ra tung tích của Người, lại cho người đến bắt. Người buộc phải rời Phật Sơn và đi sang Việt Nam lánh nạn cuối năm 1939. Và Người ở Việt Nam, truyền thụ võ công cho đến lúc quy tiên (năm 1959). Nếu tìm hiểu này là đúng, thì đúng như sư phụ tôi truyền lại, cuối năm 1939, Sư tổ Nguyễn Tế Công mới sang Việt Nam. Ngay như việc gọi thứ tự các đời cũng chưa thống nhất. Nếu tính từ Sư tổ Ngũ Mai Sư Bá là đời thứ nhất thì đến Sư tổ Nguyễn Tế Công là đời thứ 6. Nếu tính từ Sư tổ Nghiêm Vĩnh Xuân là đời thứ nhất thì Sư tổ Nguyễn Tế Công là đời thứ 5. Cách gọi này phụ thuộc vào việc định đời đầu tiên từ đầu. Tất nhiên việc này không khó, song cũng phải có sự thống nhất chung. Nếu cứ tranh luận mà không ai đưa ra được cứ liệu chính xác, đảm bảo sự tin cậy thì sẽ không có hồi kết. Chúng ta phải cùng nhau thấy rằng: Sư tổ Nguyễn Tế Công là Sư tổ Vĩnh Xuân Việt Nam. Nhờ có Người mà trong kho tàng võ học Việt Nam có được môn võ quý: môn Vĩnh Xuân. Hiện tại Vĩnh Xuân Việt Nam, theo tôi biết, có các chi nhánh:

  • Ở Hà Nội có các chi nhánh: chi nhánh của sư phụ tôi (cố võ sư Trần Thúc Tiển); chi nhánh của cố võ sư Trần Văn Phùng và chi nhánh của cố võ sư Ngô Sỹ Quí. Các cố võ sư đều là học trò của Sư tổ Nguyễn Tế Công.
  • Ở Hải Dương có chi nhánh của cố võ sư Vũ Bá Quý. Cố võ sư Vũ Bá Quý cũng một thời là học trò của Sư tổ Nguyễn Tế Công, song hiện nay, chi nhánh của cố võ sư Vũ Bá Quý không lấy tên Vĩnh Xuân (hay Vịnh Xuân) mà lấy tên là “Vũ Gia Thân Pháp”.
  • Ở TP Hồ Chí Minh có chi nhánh của võ sư Nam Anh (võ sư Nam Anh cho biết học Vĩnh Xuân từ cố võ sư Hồ Hải Long, một học trò của Sư tổ Nguyễn Tế Công, và học từ Nguyên Minh Đại Sư)…

Các chi nhánh này cũng đã và đang phát triển, hình thành các thế hệ dậy và học tiếp theo. Về Hệ thống Quyền thuật Qua nghiên cứu, tìm hiểu, tôi được biết hiện nay cơ bản có những hệ thống quyền thuật chính như sau:

  • Ở Trung Quốc và Hồng Kông: hệ thống quyền thuật Vĩnh Xuân có các bài quyền Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ, Mộc Nhân Thung và 2 bài binh khí (Lục Điểm Bán Côn và Bát Trảm Đao). Ngoài ra còn có những phương pháp tập luyện khác nữa. Tôi cũng được biết ở Trung Quốc các nhánh cũng có sự khác nhau một phần về nội dung trong các bài quyền. Song về cơ bản như tôi đã trình bày ở trên.
  • Ở Việt Nam có những hệ thống quyền thuật như sau:

- Chi nhánh của sư phụ tôi gồm các bài: Thủ Đầu Quyền, Ngũ Hình Quyền (có 6 bài gồm 5 bài của 5 hình là Long – Xà – Hổ – Báo – Hạc và một bài Ngũ Hình Tổng Hợp), các bài 108 (bài 108 tại chỗ, bài 108 tiến lùi, bài 108 mộc nhân), bài Khí Công Vĩnh Xuân Quyền, hai bài binh khí (Lục Điểm Bán Côn và Song Đao). - Chi nhánh của cố võ sư Ngô Sỹ Quý, về cơ bản cũng giống chi nhánh của sư phụ tôi. Cũng gồm các bài: Thủ Đầu Quyền, Ngũ Hình Quyền Tổng hợp, Long Quyền, Xà Quyền, Hổ Quyền, Báo Quyền, Hạc Quyền, Nhất Linh Bát (hay Một linh Tám) và một bài Mộc Nhân Thung. Trong binh khí có hai bài: Bát Trảm Đao và Lục Điểm Bán Côn. (theo http://www.vinhxuan.com2.info). - Chi nhánh của cố võ sư Trần Văn Phùng và cố võ sư Vũ Bá Quý, do tôi chưa tìm hiểu được nên chưa được rõ hệ thống quyền thuật của hai chi nhánh này. - Hệ thống quyền thuật của “Võ đường Thiếu Lâm Vịnh Xuân Nam Anh Kung fu” bao gồm các bài Tiểu Hình Ý, Tiểu Mai Hoa, Đại Mai Hoa, Ngũ Hình Quyền, Ngũ Hình Tổng Hợp, hệ thống 108 mộc nhân, binh khí có Lục Điểm Bán Côn, Bát Trảm Đao (hệ thống theo bài viết của võ sư Nam Chính Trực trên tạp chí Ngôi Sao Võ Thuật No. 4/2002) Trên đây là hệ thống quyền thuật cơ bản của một số chi nhánh Vĩnh Xuân Việt Nam. Ngoài ra các chi nhánh đều có những phương pháp tập luyện khác, thậm chí có những phương pháp có tính bí truyền (như phương pháp tập nội công). Như vậy ta thấy có những sự khác biệt (một phần) giữa các hệ thống quyền thuật Vĩnh Xuân. Sự khác nhau, tôi nghĩ đó là điều tất yếu trong quá trình truyền bá võ công. Nguyên nhân sâu xa là ở người truyền thụ. Đó là: do mức độ được truyền dậy, do khả năng tiếp thu, do khả năng nhớ và truyền thụ, do sự giác ngộ, do thiên hướng, do mục đích, do hòan cảnh .v.v. Tất cả đều rất đáng tôn trọng. Tuy nhiên, trước hết, mỗi môn đồ phải biết tôn trọng những gì mà sư phụ mình đã truyền lại cho mình. Và bằng tấm lòng với môn phái, với sư phụ, hãy luyện tập thật tốt những gì đã được sư phụ truyền dạy. Sau đó, khi đã thuần thục, có thể được, thì tìm hiểu công phu của các nhánh khác. Điều quan trọng là phải biết đó là của nhánh nào, và đến với tinh thần học tập: Tránh việc coi công pháp và kỹ thuật của nhánh khác lấy làm của mình. Tôi nghĩ như thế sẽ tốt hơn, sẽ rõ ràng hơn, và thể hiện sự tôn trọng sư phụ mình, tôn trọng các nhánh khác trong môn phái. Về Sự Phát triển hệ thống quyền thuật Mọi sản phẩm, nhất là sản phẩm trí tuệ đều không ngừng được hòan thiện. Qua thời gian, mọi sự sửa đổi đúng đều được tồn tại, mọi sự sửa đổi sai đều bị đào thải. Qua tìm hiểu, tôi thấy môn Vĩnh Xuân được hoàn thiện rất cơ bản qua các sư tổ ở Hồng Thuyền. Bản chất của môn Vĩnh Xuân là cận chiến, là nội gia – nhu quyền. Do đó, đòn thế đòi hỏi rất khuôn phép và có những quy tắc (yếu quyết) rõ ràng. Mọi sự “sáng tạo’, phát triển không tuân thủ bản chất quyền thuật của môn phái đều sẽ làm hỏng đi hình ảnh về môn phái. Tôi đồng ý với suy nghĩ của tác giả Nguyễn Giang viết trong Tạp chí Ngày Nay số Xuân Ất Dậu 2005, trong bài “100 năm sau: thực trạng và những vấn đề tiềm ẩn” “sáng tạo, đặc biệt là trong võ thuật, nếu không phải là từ sự chiêm nghiệm, tâm huyết của một võ sư đã đạt tới trình độ cao thâm nhất định, đôi khi còn có hại”. Tôi muốn bổ sung thêm cái hại mà tôi cho là lớn nhất, đó là làm mất dần đi bản chất quyền thuật của môn phái, làm cho mọi người không còn thấy những gì là tinh túy võ thuật của môn phái Vĩnh Xuân. Trong thực tế hiện nay, tôi tin rằng bản chất của quyền thuật Vĩnh Xuân sẽ không mất dần. Hệ thống quyền thuật Vĩnh Xuân cũng không bị “dần rơi vãi”. Tất nhiên, trong hòan cảnh xã hội hiện tại, cuộc sống kinh tế thị trường như cơn lốc lôi cuốn con người, liệu có bao người dám ra khỏi cơn lốc kinh tế, để bình tâm tĩnh trí mà theo đuổi môn phái và đi đến cùng với môn phái ? Tuy vậy, tôi vẫn tin rằng môn phái Vĩnh Xuân sẽ vẫn luôn giữ được bản sắc của môn phái như đã có từ hàng trăm năm qua. Cũng như mùa Xuân, không bao giờ mất đi bản chất của mùa Xuân, không bao giờ mà không có sự đâm chồi, nẩy lộc, sinh trưởng tươi đẹp và đầy sự quyến rũ. Thay cho lời kết Một số người lo có những trận “thư hùng” trong môn phái để khẳng định sự hơn hẳn giữa chi nhánh này với chi nhánh khác, tôi nghĩ rằng đây là sự lo quá xa. Tất nhiên, trong cuộc sống, trong một tổ chức, trong một môn phái, không phải không có những con người không tốt lành. Song đó chỉ là số ít, số rất ít. Không một ông thầy võ nào không đòi hỏi người trò phải có võ đức. Chính sự đòi hỏi này buộc người thầy càng phải nêu cao võ đức của chính người thầy. Võ đức, nhất lại là võ đức của Vĩnh Xuân Phật Gia càng không thể để xẩy ra những trận “thư hùng” chỉ vì cao thấp trong môn phái. “Cao nhân tắc hữu cao nhân trị”, “núi này cao, còn có núi khác cao hơn”, “giữ được mình tức là thắng được người”…Con nhà võ, mấy ai không hiểu những điều này. Tôi tin rằng những môn đồ Vĩnh Xuân Phật Gia sẽ luôn vì sự trong sáng của môn phái, gạt bỏ những sự khác biệt tất yếu, đoàn kết cùng nhau xây dựng môn phái, góp phần phát triển môn phái vững mạnh, xứng đáng với sự ngưỡng mộ của nhứng người hâm mộ môn Vĩnh Xuân trong nước và trên thế giới. Nếu cần thiết phải tìm ra người đứng đầu môn phái Vĩnh Xuân Việt Nam (như Chủ tịch Hội Vĩnh Xuân Việt Nam) sẽ có nhiều cách, nhiều hình thức để chúng ta tìm ra người xứng đáng với sự tin cậy của mọi môn đồ Vĩnh Xuân Việt Nam. Và người đó phải biết vì lòng tin của các môn đồ mà làm tròn trách nhiệm được giao. Cùng nhau xây dựng, phát triển môn phái Vĩnh Xuân mãi tươi đẹp, quyến rũ và tràn đầy sinh lực như mùa Xuân. Tác giả: Kỹ Sư – Võ sư Nguyễn Ngọc Nội Nguồn: Tạp chí Ngày Nay số 13/2005, 1-15/7/2005 với đầu đề “Quyến rũ Vĩnh Xuân quyền”

100 năm sau: Thực trạng và những vấn đề tiềm ẩn (của Vịnh Xuân Việt Nam)

Posted on Tháng Năm 21, 2009 by vinhxuanquyen

Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024

Vịnh Xuân Quyền (VXQ) ở Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay, với những hạn chế do lịch sử để lại, có thể nói còn có một số hạn chế cần có biện pháp tháo gỡ. Ngày càng …”sáng tạo” Hiện nay ở Việt Nam, đặc biệt tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đang có khá nhiều người tập luyện VXQ. Tuy cơ bản đều là võ học do sư tổ Nguyễn Tế Công truyền dạy, nhưng với hòan cảnh du nhập của Vịnh Xuân vào Việt Nam như đã trình bày, đến nay các chi phái, các võ đường luyện tập và truyền lại cũng có sự khác biệt, chính xác hơn là không hòan tòan giống nhau. Chương trình và “giáo án” giảng dạy, thậm chí ngay cả các đòn thế ứng dụng cũng có những nét dị biệt bởi có nơi chú trọng nhiều đến đòn thế, có nơi chú trọng nhiều đến nội công. Ngay thế tấn, đã có nơi cao nơi thấp, đòn thế rộng hoặc hẹp khác nhau đôi phần…Chẳng có “tiêu chuẩn” nào để xác nhận đâu đúng là chân truyền, đâu là sáng tạo của các thế hệ võ sư sau này hoặc du nhập từ các môn phái khác. Về vấn đề này, nhiều người lý giải rằng: “VXQ là một môn võ mà yếu quyết-võ lý-võ triết là quan trọng, đòn thế lại không nhiều mà lại rất phóng khoáng (quyền do tâm phát), chiêu thức không quá gò bó (vô chiêu vô thức, tâm ứng thủ) nên việc xác định đâu là chân truyền, đâu là sáng tạo, cải tiến là ..không cần thiết”. Có lẽ không phải như vậy, bởi sáng tạo, đặc biệt trong võ thuật, nếu không phải từ sự chiêm nghiệm, tâm huyết của một võ sư đã đạt tới một trình độ cao thâm nhất định, đôi khi có hại, làm suy giảm về thể chất của người tập luyện, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Vịnh Xuân đang dần rơi vãi ? Với bối cảnh truyền sang VN như của VXQ, bối cảnh mà nếu ví von như một võ sư ngay trong môn phái Vịnh xuân là “sờ voi”… Ai học đến đâu thì biết đến đó (tất nhiên là cũng có những cao đồ được truyền dạy đầy đủ)… Ngày nay trong môn phái, tuy không ai nói ra, nhưng vẫn ngầm chia thành từng chi nhánh, từng chi võ. Hơn nữa, theo quan niệm cổ của giới võ học, các võ sư vẫn giấu nhau những sở học mà mình đang có, nghĩa là chẳng ai nói với ai, chẳng ai truyền lại cho nhau. Điều này là hết sức bất lợi. Một nguy cơ có thật Từ việc hoạt động phân tán, không đồng nhất, mạnh ai người nấy luyện tập theo “bí kíp” riêng của mình, mình tâm đắc nên ngoài một số bậc “cao thủ” trong làng võ VXQ, thì ở những thế hệ thứ 5, thứ 6…, dù chưa xảy ra những trận “thư hùng”, nhưng quan niệm “vũ bất đệ nhị” (nghĩa là chả ai phục ai) càng được dịp “phát triển”. Về sau này, với hòan cảnh thực tại, ngày càng có thể kéo xa hơn, ai dám quả quyết rằng sẽ không có những bất hòa giữa các môn đồ của chính VXQ ? Ai dám phủ nhận rằng sẽ không có những mâu thuẫn ngầm trong “một nhà” ? Đây là điều chẳng ai mong muốn, nhưng lại là một vấn đề có thật… Tác giả: Nguyễn Giang Nguồn: Lược trích từ tạp chí Ngày Nay, số Xuân Ất Dậu, 15/1 – 30/2/2005

Giới thiệu Vịnh Xuân Kung Fu Nam Anh

Posted on Tháng Năm 20, 2009 by vinhxuanquyen

Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024

Võ sư Nam Anh luyện đại đao

Vịnh Xuân Kung Fu Nam Anh, được sáng lập bởi võ sư Nam Anh. Ông học võ Vịnh Xuân (Vĩnh Xuân) của cố võ sư Hồ Hải Long (một học trò của Đại sư Nguyễn Tế Công), theo một số tài liệu thì nghe nói sau này ông có thụ giáo thêm với Đại sư Nguyên Minh (Hoàng Tường Phong), cũng là một cao đồ của môn Vịnh Xuân. Ngoài ra ông còn thụ giáo với nhiều danh sư của các môn phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, và Bạch Mi. Năm 1986, ông đã thành lập ra Liên đoàn Quốc tế Vịnh Xuân Chính thống Phái tại Quebec, Canada. Hiện nay ông đang giữ cương vị là chủ tịch của Liên đoàn này. Xin được giới thiệu dưới đây một số thông tin về tiểu sử của võ sư Nam Anh và hai người thầy đã truyền thụ Vịnh Xuân cho ông.

Đại sư Nguyên Minh

Ðại Sư Nguyên Minh thuộc dòng dõi họ Hoàng Hoa, sinh năm 1884 tại Phúc Kiến và là điệt tôn của Danh Sư Hoàng Hoa Bảo. Sinh thời vốn thể chất yếu đuối lại không ăn được thịt cá, dù chỉ một miếng nhỏ cũng làm ông nôn ọe. Mẫu thân ông rất lo lắng nên tìm đến một vị Thầy nổi tiếng giỏi Nhâm cầm độn toán trong vùng để xin tiên đoán vận mệnh cho cậu bé. Tuy không tiết lộ những lời tiên tri của vị Thầy nhưng bà quyết định không chút đắn đo, lặn lội đường xa đưa con trai mình phó thác tại Kim Cương Tự. Năm 6 tuổi ông thọ giới trường trai (chay trường) và được Ðại Sư Viên Hạnh thu nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh là Nguyên Minh (tức có được Tuệ căn). Sau 18 năm chuyên cần khổ luyện theo đường lối chân truyền, một sáng mùa thu năm 1908, Phương Trượng cho gọi ông đến và bảo: - Này con, đã đến lúc con phải hạ sơn để giúp đời vì hiện nay đất nước đang lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng. Chẳng bao lâu nữa, Thanh triều sẽ bị diệt vong, Trung Quốc sẽ rơi vào cảnh cực kỳ hỗn loạn, vì thế Tổ Quốc sẽ rất cần đến tất cả những người con thân yêu… Con hãy thuận theo duyên nghiệp mà chu toàn xứng đáng bổn phận của một trang nam tử hán thời loạn. Con khá khắc cốt ghi tâm là phải tu thân thì mới tề gia, trị quốc được, đó chính là con đường Tâm đạo. Thôi đừng lưu luyến nữa, cư dân vùng Hoàng Hà sẽ trông nhờ nơi con! Năm 1912, tức 1 năm sau khi nhà Thanh sụp đổ, ông tình nguyện tham gia vào quân ngũ như bao thanh niên yêu nước thời đại. Từ 1937 đến 1945, ông là một trong những vị lãnh đạo mang cấp tướng của liên minh kháng chiến chống Nhật giải phóng đất nước. Cũng trong thời kỳ ấy, ông đảm trách công tác cứu hộ và cứu tế các nạn nhân bị thiên tai lũ lụt vùng châu thổ sông Hoàng Hà, nhờ vậy hàng chục vạn sinh mạng đã được cứu sống. Tháng 9 năm 1945, ông dẫn đầu Ðệ Bát lộ quân của Tướng Lư Hán tiến về Việt Nam giải giới hàng quân Nhật, kết thúc một cuộc chiến đẫm máu tại Ðông Nam Á. Suốt 38 năm binh nghiệp, ông nổi tiếng là một vị chỉ huy tài ba với lòng nhân hậu và trí thông minh phi thường. Rời quân ngũ năm 1949, ông quyết định sinh sống tại Việt Nam và lấy tên mới là Hoàng Tường Phong (ngọn gió vàng tốt lành). Năm 1985, vị Ðại Sư trên trăm tuổi (101) rời Việt Nam đến Trung Quốc Ðài Bắc (Ðài Loan) và ẩn tu tại một ngôi cổ tự vùng Nhật Nguyệt Hồ.

Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024

Cố võ sư Hồ Hải Long (1917-1988)

Quyền Sư Hồ Hải Long: Phỏng theo tác phẩm VÕ ĐANG BÁT BẢO QUYỀN của Tác giả Nam Anh xuất bản tại Saigon -1972 Quyền sư Hồ Hải Long (tên thật là Nguyễn Duy Hải) sinh năm 1917 tại Ninh Bình (Bắc Bộ Việt Nam), thuộc dòng dõi “Tướng tướng thế gia” và là hậu duệ của Phó Vệ Úy tướng quân Nguyễn Hữu Khôi (tức Lê Văn Khôi) viên dũng tướng tay không đánh chết hổ khiến xứ thần Xiêm La phải khiếp phục. Thuở nhỏ tuy gầy ốm nhưng có sức mạnh phi thường và tánh nóng như lửa nên chú ruột của người là Thạch Nam tiên sinh, chưởng môn phái Hàn Bái, không chịu truyền dạy cho võ nghệ. Nhưng với năng khiếu sẵn có, người chỉ nhìn trộm mà thuộc lòng bài Ngũ Lộ Mai Hoa Quyền là bài quyền sở đắc của cụ Hàn và do chuyên cần luyện tập nên trong một dịp cụ Đắc vắng nhà, người đã hàng phục hết các môn sinh chân truyền của thúc phụ. Do đó cụ Thạch Nam đã cho gọi đến và bắt đầu truyền dạy tất cả sở học cho người. Mười năm sau, vào năm 1941 người đã có cơ duyên gặp được Đại Sư Nguyễn Tế Công tại Hà Nội, lúc ấy người đã là một lực sĩ đồng thời là một cao thủ võ thuật được mệnh danh là Hải Nhật, thấy vị thầy Tàu già yếu, được gia đình mời về dạy võ, người ngạo nghễ ưỡn ngực thách thức “Ông có chịu nổi quả thôi sơn này hay không?” Chỉ tay vào lồng ngực gầy gò của mình, Đại Sư Tế Công ra dấu sẵn sàng chịu ba quả đấm của Hải Nhật. Bị xem thường và xúc phạm, người tung ngay một cú đấm sấm sét nhưng bị chận đứng bởi một bức tường đồng vách sắt mà thật ra chỉ là tấm thân ốm yếu của ông lão. Điên tiết, người lao vào và kết quả là bị bắn văng vào gụ thờ, nằm sõng soài dưới đống đồ đạc đổ lỏng chỏng mà vẫn chưa hết bàng hoàng. Sự việc này thật ấn tượng đối với chàng thanh niên Hải Nhật và đã đánh dấu một khúc quanh trên con đường luyện tập võ nghệ của người dưới sự chỉ dạy của Đại Sư Nguyễn Tế Công. Vào năm 1947, người đã oanh liệt đoạt giải vô địch kiếm thuật mười tỉnh đất Bắc (tại chợ Me Vĩnh Yên) và biệt danh “Hồ Hải Long” đã xuất hiện từ đấy. Vừa kịp thụ đắc quyền danh trấn võ môn Vịnh Xuân Ngũ Hình Khí Công thì chẳng may hành động cách mạng bị bại lộ (người vốn là một nhà yêu nước chân chính trong thời kỳ cách mạng V.N. 1945-1975) nên người bị thực dân Pháp bắt cầm tù 5 năm tại bãi biển Đồ Sơn. Tuy vậy, từ đó tham thiền suy tưởng tự luyện môn khí công nên quyền pháp biến hóa không chiêu thế, chưởng pháp dũng mãnh gọn gàng, khi vận khí người có thể chịu đựng được hàng trăm quả đấm. Người thường nói: “Trong chiến đấu mà tính trước đòn thế thì chắc chắn sẽ thảm bại”. Về hoạt động cách mạng, người đã từng sát cánh chiến đấu bên các bậc danh nhân chí sĩ yêu nước nhưng chỉ kín đáo giữ một nhiệm vụ khiêm tốn là giáo viên dạy về Luân Lý tại một ngôi trường nhỏ. Về phương diện Võ thuật, quyền sư Hồ Hải Long là bạn chí thân của cố Võ sư Nguyễn Lộc là người sáng lập Việt Võ Đạo và võ sư vô địch quyền Anh Nguyễn Quỳnh, người sáng lập môn Tinh Hoa Thuật. Năm 1969, Đại Sư Nam Anh đã may mắn được gặp Thầy Hồ Hải Long. Cảm phục hình ảnh chàng trai tiền chiến, sáng chiến khu Tuyên Quang, chiều biên giới Lào-Việt, đời sương gió chấm phá bằng đôi mắt giai nhân sóng sánh men rượu và xúc động trước tâm huyết phục vụ đất nước và nhân dân của một nhà cách mạng chân chính, Đại Sư Nam Anh đã tự nguyện đứng sau lưng người để hoàn thành hoài bão cao đẹp. Quyền sư Hồ Hải Long mất năm 1988, thọ 71 tuổi. Lúc ấy, Đại Sư Nam Anh đang ở nước ngoài và khi trở về Việt Nam năm 1992, Đại Sư đã đến thắp nén hương kính viếng người lần cuối.

Học xong bài niệm đầu vxq xong đến bài nào năm 2024

Võ sư Nam Anh (ảnh chụp năm 1979)

Trưởng môn Nam Anh Vịnh Xuân Xuất thân từ một gia đình có truyền thống võ thuật lâu đời, Đại Sư Nam Anh đã được ông ngoại truyền thụ võ công Thiếu Lâm Tự ngay từ thuở ấu thơ. Đến năm 1959, ông được vinh dự trở thành hội viên của Tinh Võ Hội (vốn là một tổ chức quốc tế về võ thuật và tiêu chí để kết nạp vào hội viên rất chọn lọc) và theo học môn Võ Đang dưới sự huấn luyện của Đại Sư Quan Thế Minh. Năm 1967, ông có cơ duyên gặp được đạo sĩ Trương Tòng Phú, vốn là Đại Sư chưởng môn phái Võ Đang nên ông đã quyết định theo Thầy lên núi tu luyện suốt 3 năm ròng Hạ sơn năm 1969 và từ đó đến năm 1975, ông theo học môn Vịnh Xuân với võ sư Hồ Hải Long (tên thật là Nguyễn Duy Hải), một trong số các truyền nhân của Đại sư Nguyễn Tế Công. Trong khoảng thời gian ấy, cùng với võ sư Hồ Hải Long, ông đã sáng lập nên bộ môn Thần Khí Đạo với tinh hoa đặt nặng trên Khí và Thần. Sau năm 1975, một hoàn cảnh đặc biệt đã khiến ông gặp gỡ Đại Sư Hạng Văn Giai tại trại học tập cải tạo Chí Hòa. Cùng trong cảnh ngộ là trại viên diện chính trị, giữa hai người đã nảy sinh một mối thâm giao. Suốt trong thời gian từ 1975 đến 1977, ngoài giờ học tập lao động, Đại Sư Hạng Văn Giai đã tâm truyền cho ông sở học thâm sâu về các ngành học thuật Đông Phương như Phong Thủy, Tướng Pháp và Tử Vi Đẩu Số. Sau khi mãn hạn học tập, ông đã quyết chí lặn lội tìm kiếm tung tích của Đại sư Nguyên Minh theo lời gửi gắm của Đại Sư Hạng Văn Giai. Sau khi đã gặp và vượt qua nhiều thử thách, ông đã được Đại Sư Nguyên Minh nhận làm đệ tử thân tín và dốc lòng truyền dạy cho ông để kiện toàn hết trình độ cao đẳng và siêu đẳng của Vịnh Xuân (từ năm 1977 đến năm 1983). Sau hơn 30 năm khổ luyện, Đại Sư Nam Anh đã được Đại Sư Nguyên Minh, đại diện ủy quyền của Kim Cương Tự, chính thức sắc phong Chu Sa Đai đệ cửu đẳng và được chỉ định làm chưởng môn đời thứ 6 Vịnh Xuân Chính Thống Phái tại Việt Nam. Sự lựa chọn này chủ yếu xét đến kiến văn, trình độ văn hóa và khả năng vận dụng trong xã hội đương đại. Trong năm 1978, ông cũng gặp lại Đại Sư Lưu Đại Phong, tức Lục Bình Đạo Nhân, vốn là sư đệ của Đại Sư Trương Tòng Phú. Cũng là người phái Võ Đang, Lục Bình Đạo Nhân quí ông như một đệ tử thân tín và trở thành cố vấn tinh thần cho ông. Đặc biệt vào năm 1980, ông đã khổ công tập luyện thêm Bạch Mi chính thống phái tại Việt Nam với Đại Sư chưởng môn Lư Bình Vân, nhờ vậy hóa giải được mối bất hòa trước đây giữa hai môn phái Bạch Mi và Vịnh Xuân. Bên cạnh sự nghiệp về Võ Thuật, Đại Sư Nam Anh còn hoạt động rất tích cực trong nhiều lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp khác : Tốt nghiệp Cao Học Luật Công Pháp Quốc Tế tại Luật Khoa Đại Học Đường – Sài Gòn, cử nhân văn chương Pháp và Đức – Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. 1969 đến 1973 : Hội viên Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam, phó tổng thư ký Tòa soạn Nguyệt san Võ thuật là tạp chí duy nhất về võ thuật thời đó. 1973 : Luật Sư thuộc Luật Sư Đoàn – Sài Gòn. 1973 đến 1975 : Cố vấn Pháp Lý cho Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam 1977 đến 1986 : Hội viên Hội Luật Gia Việt Nam. Đến Québec – Canada năm 1986, ông là Giáo Sư giảng dạy hơn 9 năm tại Đại Học Montréal, cùng lúc hoàn tất học trình Tiến Sĩ Luật Thương Mại quốc tế. Đại Sư Nam Anh còn là Chủ tịch kiêm sáng lập viên Liên Đoàn Quốc Tế Thiếu Lâm Vịnh Xuân Nam Anh Kung Fu và Liên Đoàn Quốc Tế Vịnh Xuân Chính Thống phái. Đồng thời ông cũng là Chủ tịch kiêm sáng lập viên Hội Án, Ma, Nã tại Québec và là tác giả của hơn 16 quyển sách các loại từ võ thuật, sinh ngữ, kiến trúc, đến đông y, tử vi đẩu số v.v… xuất bản trong những năm 1969 – 1975. Nguồn: Vịnh Xuân Kung Fu Nam Anh (www.shaolinwingchun.com)

Đòn cùi trỏ trong Vịnh Xuân Hồng Kông

Posted on Tháng Năm 18, 2009 by vinhxuanquyen

Võ công Vịnh Xuân nổi tiếng với những trái đấm thẳng thần tốc được biết tới qua những tên gọi như Trực Tuyến Quyền, Nhật Tự Quyền… Nhưng trong thủ pháp Vịnh Xuân, các đòn cùi chỏ cũng sắm một vai trò không kém quan trọng.