Dũng sĩ diệt mỹ là ai

44 năm trôi qua từ ngày đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất nhưng trên gương mặt chằng chịt nếp thời gian của Anh hùng LLVTND Trương Văn Hòa (82 tuổi, trú xã Điện Hòa, TX Điện Bàn, Quảng Nam), như vẫn vẹn nguyên niềm cảm xúc tràn trề khi gợi nhắc về một thời hào hùng của dân tộc. “Tôi mồ côi cha mẹ từ nhỏ và sớm được giác ngộ lý tưởng cách mạng. 15 tuổi, tôi được tổ chức đào tạo hoạt động bí mật, làm nhiệm vụ thông tin, du kích ở xã Điện Hòa. Ngày chăn trâu thám thính động tĩnh của quân địch, tối đến cùng lực lượng cách mạng đánh phá ấp chiến lược. Với nhiều thành tích đạt được, năm 1963 tôi được tổ chức tin tưởng giao nhiệm vụ Phó Đội trưởng du kích xã Điện Hòa. Tôi chỉ huy đội du kích xã phối hợp với bộ đội địa phương chiến đấu phá ấp chiến lược của bọn Mỹ-ngụy đưa dân về nơi ở cũ, tiến đánh các cơ quan Hội đồng xã của giặc lập nên nhiều chiến công vang dội”-ông Hòa kể với giọng tự hào.

Dũng sĩ diệt mỹ là ai

Anh hùng LLVTND Trương Văn Hòa kể lại thành tích chiến đấu của mình.

Tháng 3-1963, địch cho 2 tiểu đoàn đến khủng bố, tàn sát nhân dân, lùng bắt cán bộ, phá hoại phong trào du kích trong xã. Trước tình thế đó, Đội trưởng Trương Văn Hòa tổ chức lực lượng du kích liên tục tập kích, diệt 163 tên giặc, thu 17 súng, buộc chúng phải rút lui. Giữa năm 1964, sau những thắng lợi của quân ta, Mỹ-ngụy tăng cường lực lượng Sư đoàn 2 về khu vực Quảng Đà (Quảng Nam-Đà Nẵng), đưa Trung đoàn 1 đóng giữ tại thôn Bích Bắc (xã Điện Hòa). Nắm được thông tin, trong đêm, anh Hòa trực tiếp chỉ huy 6 chiến sĩ dùng đạn pháo đánh vào nơi giặc đóng giữ ở cồn Ông Bố, vườn Ông Sâm. Bị phục kích bất ngờ, quân giặc trở tay không kịp, trận này quân ta tiêu diệt được 24 tên Mỹ-ngụy và thu được nhiều vũ khí. Nắm được giờ đi tuần tra đêm của địch, anh Hòa cùng 2 du kích mang 12kg thuốc nổ đặt trên đường tiếp tục tiêu diệt toàn bộ 18 tên giặc. Với những chiến công vang dội,  cuối năm 1964, Trương Văn Hòa được khen tặng Huân chương Chiến công hạng Ba, 10 lần được phong dũng sĩ diệt Mỹ. Đến tháng 3-1965, Mỹ tiếp tục tăng cường lực lượng đóng giữ tại xã Điện Hòa, anh Hòa tiếp tục dẫn 4 đồng chí tập kích đội hình Mỹ-ngụy tuần tra tiêu diệt 5 tên giặc. Trực tiếp chỉ huy đội du kích độc lập, tổ chức nhiều đợt tiến công đồn canh gác công trường đường sắt trong khu vực cầu Bến Sâu, La Họ (Quảng Nam), đánh 3 đoàn tàu, 1 đầu máy, 12 toa xe, tiêu diệt 441 tên, thu 207 súng, cắt đứt giao thông địch, bức rút nhiều đồn bốt.

Sau đó, bọn giặc thực hiện âm mưu dồn dân về nõng Bích Bắc, tách dân ra khỏi lực lượng cách mạng để dễ bề truy lùng tiêu diệt. Lúc đó, quân ta đành ẩn trốn dưới hầm bí mật. Trước tình hình đó, Hòa chỉ huy toàn bộ lực lượng tổng tiến công vào nõng Bích Bắc tiêu diệt 3 tên giặc. Nhận tin báo, bọn Mỹ dùng trực thăng chi viện nhưng bắn nhầm vào quân mình chết 13 tên, quân ta hạ được máy bay địch. Trên đường tháo chạy, quân ta phục kích đặt 2 quả mìn trên đường tiêu diệt tiếp 24 tên giặc. Sau trận này, anh Hòa được cử đi tham dự Đại hội Quân khu 5, được tặng Huân chương chiến công hạng Nhì, phong danh hiệu “Kiện tướng diệt Mỹ” và 13 lần dũng sĩ diệt Mỹ”. Cuối năm 1965, Trương Văn Hòa giữ chức Xã Đội trưởng xã Điện Hòa, kiêm Huyện đội phó H. Điện Bàn, dũng cảm, mưu trí chỉ huy lực lượng phá kế hoạch “bình định” của địch, diệt 168 tên địch, thu 34 súng các loại. Trong đó có 2 súng cối 60 ly, 4 máy thông tin PRC.10 và 1 xe thiết giáp M.118, buộc địch phải rút khỏi xã, bỏ dở cuộc càn, bảo vệ toàn vẹn mùa lúa cho dân. Ngoài ra, anh còn tình nguyện đi đầu trong phong trào “tìm Mỹ mà diệt”, từ tháng 7 đến 11-1965, đã phá 2 xe bọc thép, 1 xe Jeep, diệt và bắt sống 82 tên Mỹ-ngụy. 2 tháng sau dự Đại hội Chiến sĩ thi đua về, anh tiếp tục lãnh đạo du kích địa phương bao vây đại đội bảo an Mỹ-ngụy bắn tỉa diệt 142 tên Mỹ, 24 tên ngụy, hạ 1 máy bay, đánh phá giao thông bằng mìn tự tạo, phá hủy 5 xe thiết giáp M.113, diệt 18 tên Mỹ, 5 tên ác ôn. Riêng cá nhân anh tiêu diệt 33 tên Mỹ, 4 tên ngụy, 5 xe bọc thép chở lính, bắn rơi 1 máy bay, giải phóng hoàn toàn các xã.

Giữa năm 1966, Hòa được chọn đi tham dự Đại hội chiến sĩ thi đua ở miền Nam và được Ủy ban T.Ư MTDTGP  miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND, tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và Nhì, phong 12 lần dũng sĩ diệt Mỹ, 14 lần dũng sĩ diệt ngụy. Giai đoạn 1967-1969, anh chỉ huy lực lượng du kích đánh quân ngụy đi càn tiêu diệt bắt sống 4 tên Mỹ, tập kích Bộ chỉ huy Sư đoàn 2 tại xã Điện Thọ, Điện Phước tiêu diệt 80% lực lượng. Tuy nhiên, trong trận này, địch chi viện trực thăng phản công quyết liệt khiến quân ta thương vong rất nhiều, riêng Hòa bị địch bắt sống. Anh bị chúng đem về đồi Bồ Bồ tra khảo đầu não cách mạng nhưng ông nhất quyết không khai. Bọn chúng tra tấn dã man khiến anh nhiều lần chết đi sống lại. Biết không khai thác được gì nên bọn giặc kết án rồi đưa anh ra ngục Phú Quốc giam giữ. Trong tù, anh được tín nhiệm bầu làm Đảng ủy nhà lao Phú Quốc. Lúc đó, công tác tổ chức gặp rất nhiều khó khăn vì bọn chiêu hồi trà trộn báo thông tin khiến nhiều cán bộ Đảng bị tiêu diệt, do đó, phong trào đấu tranh trong ngục tạm lắng xuống. Quyết không để bọn nội gián làm hại quân ta, Trương Văn Hòa đã trực tiếp điều tra, tiêu diệt 7 tên nội gián tình báo cho giặc. Từ đó, phong trào đấu tranh tuyệt thực, phản kháng phản đối Mỹ-ngụy phát triển, thu được nhiều chiến công. Năm 1972 Hòa tổ chức vượt ngục thành công trở về địa phương tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh đến ngày giành độc lập…

Sau ngày hòa bình, ông Trương Văn Hòa đảm nhiệm công tác dân vận tại tỉnh Quảng Nam, hợp tác xã nông nghiệp… Ngày 20-10- 2005, ông đã tặng lại Huy chương Anh hùng LLVTND Giải phóng cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam làm hiện vật trưng bày.

LÊ VƯƠNG

Nhấp ngụm trà như để hồi tưởng lại chính xác sự việc, cụ tiếp tục câu chuyện: Phải rồi, đó là một trận đánh trực diện giữa đơn vị với Mỹ, Ngụy tại ngã ba Đông Dương năm 1966. Bộ đội chúng tôi phải đối diện với quân chủ lực địch có hỏa lực mạnh. Tất cả chúng tôi phải ép người xuống mặt đất, bởi sau từng đợt hỏa pháo địch giội vào trận địa, thì máy bay trực thăng trang bị súng đại liên bay rà mặt đất, đạn bắn như vãi chấu.

Tiếp đến là xe tăng và bộ binh ùn lên từng đám. Tổ của tôi có 5 người, gồm 2 chiến sĩ mang súng AK, 2 nhà báo và tôi mang khẩu B40. Ngay từ lúc triển khai đội hình chiến đấu, 2 chiến sĩ mang AK đã bị trúng đạn pháo hy sinh. Tôi cùng 2 đồng chí nhà báo trườn được đến một ụ mối ngoài bìa rừng thì ém lại, lợi dụng địa hình quan sát và tránh đạn bắn thẳng của địch. Đạn đủ các kích cỡ cày nát mặt đất, 1 đồng chí nhà báo hy sinh tại chỗ, đồng chí nhà báo còn lại bị đạn bắn gãy cẳng chân.

Tôi vội kéo anh ấy xuống một hố đạn pháo để băng bó sơ cứu. Chợt tiếng động cơ xe tăng gầm rít ở rất gần, tôi ngoi lên mặt đất đã thấy ngay phía trước, cách vị trí chúng tôi trú ẩn 20 mét. Tôi ôm khẩu B40 lăn mấy vòng ra ngoài hố bom để chọn vị trí bắn. Rầm… Chiếc xe tăng Mỹ đứng khựng lại, lửa cháy đỏ rực. Một chiếc xe tăng khác hồng hộc như con thú ác lao lên, tôi vội miết cò, quả đạn B40 thứ hai lao sượt qua nóc xe.

Trận địa đầy đạn pháo, “con thú” thay đổi hướng di chuyển, tôi nạp đạn, bắn tiếp quả thứ ba, rất tiếc là “nó” đã chạy khá xa nên bắn không hiệu quả. Tôi thầm nhủ: Đánh được một xe tăng Mỹ, thế là đã có lãi. Trận đó bộ đội ta bị tổn thất nhiều, Đại đội tôi bị hy sinh hơn nửa quân số. Nặng nhất là bên 12 ly 7, đơn vị tổ chức trận địa đánh trả máy bay tầm thấp được chốt ở trong rừng, nhưng bị địch phát hiện mục tiêu, chúng dùng pháo tầm xa giội đến, trận địa tan nát, đơn vị bị xóa sổ… Sau trận đánh, tôi được cấp trên phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.

Có mặt ở đó, ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã tâm đắc: Cụ Lệ là Dũng sĩ diệt Mỹ, đồng thời là thương binh. Cụ sống mẫu mực nên được người dân trong vùng quý mến. Còn bà Lê Thị Thu tự hào: Năm 1962 tôi về làm vợ ông ấy. Đến tháng 5-1965, ông nhập ngũ, đi một mạch vào mặt trận phía Nam. Tôi ở nhà nuôi con, vò võ chờ đợi hơn 3.800 ngày thì ông ấy về…

Cụ Lệ thanh minh: Từ ngày chia tay bà, tôi được tham gia đợt huấn luyện quân sự ở huyện Phú Bình 3 tháng. Rồi cùng anh em trong đơn vị lên tàu về đến ga Hàng Cỏ (Hà Nội), lại chuyển sang đi ô tô đến Đò Lèn (Thanh Hoá) và bắt đầu hành quân bằng đôi chân. Trên đường mòn Nam tiến, chúng tôi vừa hành quân, vừa  tổ chức đánh biệt kích và giáp chiến với địch ở Khe Sanh (Quảng Trị). Nên khi tập kết ở tỉnh Bình Long thì quân số của đơn vị bị hao đi khá nhiều.

Thời quân ngũ, cụ trực tiếp tham gia bao nhiêu trận đánh? Tôi buột miệng hỏi làm câu chuyện cắt ngang. Giây lát suy tư, cụ bảo: Nhiều lắm, lớn nhỏ phải gần bảy chục trận. Có trận mình chủ động đánh địch, cũng có trận địch đi càn, mình tổ chức đánh lại… Chúng tôi đánh địch ở Bình Long, rồi hành quân đến ngã ba Đông Dương tiếp tục đánh địch.

Cũng tại vùng đất “1 con gà gáy người 3 quốc gia cùng nghe”, tôi được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Và tôi bị thương cũng ở vùng đất này. Hôm đó chúng tôi đi tìm đồng đội bị “dính đạn” địch ở trận đánh hôm trước. Không may là gặp bên địch cũng đang đi “nhặt xác” nhau, vậy là nổ súng. Tôi bị dính 1 viên đạn vào phía dưới xương quai xanh. Đồng chí đi cùng kéo tôi xuống chiếc hầm kèo gần đó, thì rầm rầm… pháo địch giội vào trận địa tới tấp, hầm xập, cho đến ngày hôm sau đơn vị mới bới được chúng tôi lên.

Sau 1 tháng điều trị tại quân y viện, người Dũng sĩ diệt Mỹ được trên bố trí vào học lớp quân y 12 tháng. Rồi trở lại làm y tá tiểu đoàn. Vì là đơn vị chiến đấu, nên anh thường theo các mũi trinh sát luồn sâu vào các vùng địch và trực tiếp tham gia các trận đánh. Đến cuối mùa khô năm 1967, anh được điều động về trạm phẫu quân y ở Tây Ninh, làm nhiệm vụ cứu chữa thương binh cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Nhưng vì nhiệm vụ, đến tháng 2-1976, anh mới được đơn vị cho nghỉ phép về thăm nhà.

Bấm đốt tay cụ Lệ bảo: Đúng 10 năm 9 tháng vợ chồng mới gặp lại nhau. Thương vợ cực khổ, từng ấy năm vò võ nuôi con, đợi chồng, nên khi trở lại đơn vị trả phép, tôi báo cáo với chỉ huy: Chiến tranh đã kết thúc, đất nước thống nhất rồi, các thủ trưởng cho tôi về quê cùng vợ nuôi con.

Mới đó đã mấy mươi năm đi qua đời người, anh Lệ của ngày xưa nay thành cụ Lệ. Nhưng cái chất lính và ký ức của thời trận mạc trong ông chưa bao giờ cũ. Ông nắm tay tôi rất chặt, bảo: Trong chiến đấu hay ở cuộc sống đời thường, niềm tin vào đồng chí, đồng đội là sức mạnh chiến thắng. Còn ông Vũ Văn Sơn, Chi hội trưởng Cựu chiến binh xóm Soi Mít cho biết: Về đời thường, cụ Lệ luôn phát huy phẩm chất người lính Cụ Hồ, tích cực tham gia các phong trào thi đua tại địa phương. Cụ sống mẫu mực, tích cực vận động con cháu, dòng họ và bà con chòm xóm tham gia các phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hoá; xây dựng nông thôn mới.