Cơ sở lý luận đánh giá giáo dục đại học

  • 1. VIỆN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ THANH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2014
  • 2. VIỆN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ THANH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ: 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ph¹m v¨n s¬n HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC 13 1.1. Một số khái niệm cơ bản 13 1.2. Nội dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học 20 1.3. Các nhân tố tác động tới tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 31 Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ 37 2.1. Khái quát tình hình tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 37 2.2. Thực trạng và nguyên nhân của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 40 Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ 59 3.1. Những yêu cầu tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 59 3.2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 63 3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của hệ thống các biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 80 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 PHỤ LỤC 93
  • 4. do chọn đề tài Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo đại học đang là yêu cầu cấp bách, là vấn đề được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục đại học và của toàn xã hội. Đó là phương thức cơ bản để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện Luật Giáo dục 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo nhằm nhanh chóng tạo bước chuyển biến lớn về chất lượng giáo dục. Công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục được triển khai trong vài năm gần đây, đã có những tác động tích cực đến chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Đánh giá chất lượng là một khâu không thể thiếu trong quá trình đào tạo đại học. Nó đóng vai trò phản hồi trong quá trình đào tạo, đồng thời là cơ sở quan trọng để có những quyết định đúng đắn cho việc điều chỉnh, nâng cao hiệu quả của từng thành tố trong hệ thống đào tạo và xác định các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo đại học. Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học là một trong những công đoạn đầu tiên trong tổng thể các hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục - đào tạo; phản ánh tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chủ thể đối với hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ mà cơ sở đào tạo đảm nhiệm. Đồng thời, thông qua tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo để phát hiện những ưu điểm và hạn chế, từ đó phát
  • 5. chỉnh quá trình đào tạo phù hợp với tôn chỉ mục đích và nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở, tạo điều kiện cho các bước kiểm định, đánh giá chất lượng tiếp theo của hệ thống các cấp từ trên xuống. Nằm trong hệ thống học viện, nhà trường của quốc gia, từ năm 2009 Học viện Chính trị đã thành lập cơ quan Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục- đào tạo và đi vào hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ. Đây là cơ quan tham mưu giúp lãnh đạo, chỉ huy Học viện lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động về khảo thí, thanh kiểm tra huấn luyện và đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo, trong đó có nhiệm vụ tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đang được triển khai và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đôi lúc chưa được lãnh đạo, chỉ huy các cấp, lực lượng sư phạm và cơ quan chức năng quan tâm, nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của nó, một số điều kiện bảo đảm cho công tác này chưa được coi trọng, đầu tư một cách thích đáng. Vì thế, hoạt động tự đánh giá tuy đã được triển khai song chưa đạt kết quả như mong muốn, trong đó, cách thức, biện pháp tổ chức triển khai chưa được nghiên cứu thấu đáo; công tác tập huấn, bồi dưỡng kĩ năng tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo cho các lực lượng tham gia chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, thiếu tính chuyên nghiệp; việc tổ chức lực lượng và công tác phối hợp hiệp đồng trong hoạt động tự đánh giá chưa thật chặt chẽ… Từ những lí do trên, để tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện có những bước chuyển biến mạnh mẽ và đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, tiếp tục khẳng định vị thế, uy tín của Học viện đối với quân đội và xã hội, thì việc nghiên cứu, luận giải về công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay là vấn đề có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả lựa chọn:
  • 6. động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động đánh giá chất lượng giáo dục luôn đồng hành với công tác dạy và học ở các cơ sở giáo dục. Đánh giá chất lượng nhằm mục đích giám sát quá trình dạy và học từ đó đưa ra những quyết sáchvề quản lí, dự đoán các kết quả đào tạo và không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục có nhiều nội dung khác nhau trong đó có đánh giá các yếu tố điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và đánh giá chất lượng sản phẩm giáo dục. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chất lượng sản phẩm giáo dục chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, các trang thiết bị trường học và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường. Ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc... kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục và đào tạo đã được triển khai nghiên cứu từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Trong các cuốn sách (đã được dịch sang tiếng Việt) của một số tác giả ở các nước trên đều cho rằng: đánh giá chất lượng có mục đích giám sát quá trình giáo dục, từ đó các nhà quản lý có thể dự đoán kết quả, đưa ra những quyết định, những điều chỉnh kịp thời để nâng cao chất lượng giáo dục. Và họ cho rằng, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục cần được thực hiện đồng bộ ở cả hai phương diện: kiểm định, đánh giá sản phẩm giáo dục và kiểm định, đánh giá các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường. Một trường đại học trong thời đại ngày nay, muốn phát triển và hội nhập quốc tế phải có chính sách, mục tiêu và quy trình đảm bảo chất lượng; do đó công tác kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục được tiến hành đồng thời ngay trong quá trình đào tạo. Cơ quan kiểm định là các đơn vị độc lập với cơ quan quản lý và triển khai giáo dục, từ đó các kết quả kiểm định, đánh giá có giá trị khách quan, loại trừ được các yếu tố chủ
  • 7. do bệnh thành tích. Đốivới giáo dục đại học, chất lượng giáo dục chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cấu thành nhà trường như: hoạt động quản lý, độingũ giáo viên, học viên, cơ sở vật chất, trang thiết bịtrường học và tổ chức, quản lý giáo dục...dođóđánh giá chất lượng giáo dục đại học cần đánh giá đầy đủ các yếu tố đó. Ở các nước phát triển đã tiến hành kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học để công nhận chất lượng của từng trường, tiêu biểu là Hoa Kỳ, Canađa, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...Các nước này đã xây dựng những bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục với các tiêu chí cụ thể để xác định mức độ đạt được của các cơ sở giáo dục. Ở Việt Nam, về phương diện nghiên cứu lý thuyết đã có nhiều tác giả đề cập đến kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục cả ở bậc học phổ thông và giáo dục đại học như: Nguyễn Công Khanh “Về tiêu chuẩn kiểm định khoá đào tạo giáo viên tiểu học”, tác giả đã giới thiệu nội dung các tiêu chuẩn và tiêu chí kiểm định chất lượng khoá đào tạo giáo viên tiểu học: tiêu chuẩn 1- mục tiêu, tổ chức và quản lý ; tiêu chuẩn 2-chương trình và các hoạt động đào tạo; tiêu chuẩn 3-đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo; tiêu chuẩn 4-người học và công tác hỗ trợ trường học; tiêu chuẩn 5-thư viện, trang thiết bị dạy học và cơ sở vật chất hỗ trợ khoá đào tạo; tiêu chuẩn 6-công tác tài chính phục vụ khoá đào tạo; tiêu chuẩn 7-công tác đánh giá sinh viên tốt nghiệp khoá đào tạo và tư vấn việc làm. Trong cuốn sách “Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học” tác giả Nguyễn Đức Chính đã bàn về kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học Việt Nam và kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học thế giới. Ngoài việc cung cấp cơ sở khoa học về kiểm định, đảm bảo chất lượng và các mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại học, tác giả còn giới thiệu về Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo trong các trường đại
  • 8. và hướng dẫn tiến hành quy trình kiểm định chất lượng. Bộ tiêu chí đánh giá gồm 26 tiêu chí với hơn 120 chỉ số đánh giá bao quát toàn bộ 8 lĩnh vực hoạt động chính của một trường đại học được xây dựng trên cở sở lý luận khoa học tiên tiến và cơ sở phân tích xử lý số liệu điều tra khảo sát của 47 trường đại học thuộc các nhóm ngành đào tạo. Độ tin cậy và giá trị của bộ tiêu chí đã được hội đồng khoa học nhà nước đánh giá rất cao và đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng như một tài liệu tham khảo chính để thiết kế công cụ đánh giá chất lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo của các trường đại học trong năm 2005. Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, cùng với trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội đã triển khai nghiên cứu đề tài cấp nhà nước về “Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dùng cho các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam”. Tác giả Nguyễn Văn Phán đã nghiên cứu về “Giải pháp công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục- đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay”, trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận liên quan, tác giả nhấn mạnh tự đánh giá là một khâu trong chu trình bảo đảm chất lượng giáo dục mà cơ sở giáo dục nào cũng phải thực hiện. Tác giả cũng đã đề xuất một hệ thống biện pháp tương đối toàn diện để thực hiện công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo trong các nhà trường quân đội. Tác giả Nguyễn Tất Thành trong nghiên cứu “Quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục các trường dạy nghề quân đội hiện nay” đã nghiên cứu và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục các trường dạy nghề quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường dạy nghề quân đội hiện nay. Về phươngdiện thực tiễn, từ năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quan tâm xây dựng cơ quankiểm định chấtlượng giáo dục, từ đâyhệ thống kiểm định
  • 9. ở nước ta được hìnhthành và đi vào hoạt động. Cụ thể như: tháng 1/2002 thành lập Phòng Kiểm định chất lượng đào tạo thuộc Vụ Đại học và Sau đại học; tiếp đó Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục được thành lập theo Nghị định số 85/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ. Tiếp đó là Trung tâm Đảm bảo chấtlượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển giáo dục củaĐại học Quốc giaHà Nội; và Trung tâm Khảo thí - Đánh giá chất lượng giáo dục của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập. Cùng với sựra đờicác tổ chức, ngày2/12/2004, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học với 10 tiêu chuẩn và 53 tiêu chí bao hàm hầu hết các hoạt động của trường đại học.Và mới đây, Quyết định số 65/2007/QĐ-BGĐT về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trườngđại học và Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 10 năm 2012 củaBộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐTngày 01 tháng 11 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đạihọc ra đời, đâylà cơ sở pháp lý để triển khai hoạt động kiểm định chấtlượng ở các cơ sở đào tạo đại học. Trong Quân đội cũng đã có Quyết định số 1737/QĐ-TM ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Tổng Tham mưu trưởng về việc thành lập phòng(ban)khảo thí và đảmbảo chấtlượng giáo dục - đào tạo thuộc học viên, trường trong quân đội; Hướng dẫn số 832/HD-NT về công tác khảo thí và đảm bảo chấtlượng giáo dục - đào tạo đốivới các học viện, trường sĩ quan, đại học, cao đẳng trong quân đội. Các công trình nghiên cứu lý thuyết về kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục đạo học và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn về lĩnh vực này của một số trường đại học nước ta như trình bày trên, đã tạo nền tảng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận, kế thừa học tập kinh nghiệm để triển khai hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay.
  • 10. nghiên cứu trên đã đề cập đến kiểm định chất lượng giáo dục trên nhiều khía cạnh khác nhau như: Làm rõ cơ sở lý luận về kiểm định chất lượng giáo dục, xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục và các nhân tố tác động tới chúng. Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến tự đánh giá chất lượng giáo dục đại học và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn về lĩnh vực này của một số trường đại học nước ta như đã trình bày ở trên đã tạo nền tảng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn kinh nghiệm để triển khai hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục ở các học viện, nhà trường trong quân đội hiện nay. Tuy nhiên, tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo nói chung, ở các học viện, nhà trường quân đội nói riêng chưa được tác giả nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tự đánh giá chất lượng giáo dục, đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị. * Nhiệm vụ nghiên cứu Luận giải cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị. Khảo sát, đánh giá thực trạng về công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị. Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị đáp ứng yêu cầu đặt ra. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Hoạt động đảm bảo chất chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị.
  • 11. cứu: Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu: Về phạm vi nội dung: Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị theo chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục - đào tạo các trường đại học. Về phạm vi, đối tượng khảo sát: Học viên, cán bộ quản lý giáo dục và giảng viên của Học viện Chính trị. Phạm vi, giới hạn thời gian nghiên cứu: Các số liệu điều tra khảo sát chủ yếu tính từ năm 2009 đến nay. Đó cũng là thời gian cơ quan Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện được thành lập. 5. Giả thuyết khoa học Quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo ở Học viện Chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Trong quá trình tổ chức hoạt động tự đánh giá, nếu chủ thể quản lý thực hiện khoa học, hợp lý các tác động để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng liên quan đến hoạt động tự đánh giá; thực hiện chặt chẽ các khâu xây dựng kế hoạch, lựa chọn và phối hợp sử dụng lực lượng một cách khoa học; quan tâm tới việc thực hiện quy trình tự đánh giá và thường xuyên kiểm tra, kiểm soát quá trình này thì hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục sẽ không ngừng được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo ở Học viện Chính trị. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ
  • 12. văn kiện nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; đồng thời dựa trên các quan điểm, nguyên tắc phương pháp của khoa học quản lý giáo dục, lý luận về tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được nhiệm vụ của đề tài, tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cụ thể là: Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Hệ thống hóa, khái quát hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, cơ quan chức năng về đảm bảo chất lượng giáo dục; kiểm định, đánh giá, tự đánh giá chất lượng giáo dục. Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Cục Nhà trường; các tài liệu có liên quan đến quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục ở các nhà trường trong Quân đội. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến đối với cán bộ, giảng viên và học viên trong Học viện. Sử dụng phương pháp quan sát các hoạt động liên quan đến tự đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo trong Học viện. Sử dụng phương pháp nghiên cứu sản phẩm đào tạo; Phương pháp tổng kết kinh nghiệm tự đánh giá của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài quân đội, cùng với một số phương pháp hỗ trợ khác như: sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu... 7. Ý nghĩa, giá trị của đề tài nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa và phát triển cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị.
  • 13. thểdùnglàm tài liệu tham khảo trongnghiên cứu tổ chức tiến hành có hiệu quảtổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị, cũng như các trường cao đẳng, đại học. 8. Cấu trúc của đề tài Đề tài được kết cấu gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
  • 14. LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm tổ chức Tổ chức là một hoạt động xã hội, một trong những loại hình lao động quan trọng trong các hoạt động của con người. Do cách tiếp cận khác nhau nên việc mô tả, giải thích có thể khác nhau nhưng về bản chất đều hướng tới làm rõ lý luận, thực tiễn và các kỹ thuật làm cơ sở cho hoạt động tổ chức. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta từ lâu đã khẳng định vị trí, vai trò của tổ chức và công tác tổ chức trong sự phát triển của xã hội và con người. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng Nga, V.I.Lênin đã rút ra kết luận: “Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là tổ chức” và khi đã giành được chính quyền, toàn bộ nhiệm vụ của đảng cầm quyền là “…tổ chức, tổ chức và tổ chức”. Lê Duẩn đã từng định nghĩa: “Tổ chức, nói rộng ra là cơ cấu tồn tại của sự vật, hiện tượng. Sự vật và hiện tượng không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức, vì vậy, là thuộc tính của bản thân các sự vật và hiện tượng” [13, tr.28]. Tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại dưới dạng tổ chức nhất định. Định nghĩa trên có ý nghĩa rất sâu sắc, bao quát cả phần tự nhiên và xã hội loài người. Trong xã hội loài người có con người (cộng đồng) là có tổ chức. Vì vậy, có thể nói tổ chức là hình thức tập hợp, liên kết các thành viên trong xã hội (cá nhân, tập thể) nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, cùng nhau hành động vì lý tưởng, mục tiêu chung. Công tác tổ chức là những việc làm để tập hợp nhiều người lại với nhau, xây dựng cơ cấu bộ máy làm việc, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách
  • 15. người, từng bộ phận trong tổ chức, đề ra chương trình, kế hoạch và cách thức hành động của các thành viên, để tổ chức hoạt động được nhịp nhàng, ăn khớp với nhau và đạt hiệu quả… Để giúp cho mọi người cùng làm việc với nhau nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu cần phải xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trò, nhiệm vụ và vị trí công tác. Vì vậy,việc xác định vai trò, nhiệm vụ là chức năng tổ chức trong quản lý. Vai trò của một bộ phận hay một cá nhân bao hàm bộ phận hay cá nhân đó hiểu rõ công việc mình làm nằm trong một phạm vi nào đó, nhằm mục đích hoặc mục tiêu nào, công việc của họ ăn khớp như thế nào với các cá nhân hoặc bộ phận khác và những thông tin cần thiết để hoàn thành công việc. Như vậy, tùy theo cách tiếp cận và quan điểm khác nhau, người ta có thể đưa ra các khái niệm khác nhau, nhưng về bản chất tổ chức hoạt động là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống của chủ thể tổ chức lên đối tượng tổ chức thông qua việc lập kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức và kiểm tra các hoạt động của tổ chức nhằm đạtđược mục tiêu đã định. Tổ chức hoạt động bao giờ cũng là tổ chức hoạt động của một hệ, một đơn vị cụ thể; trong tổ chức hoạt động bao giờ cũng có các thành phần: chủ thể tổ chức, mục tiêu tổ chức và đối tượng tổ chức; về bản chất, là cách thức tác động (triển khai, điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật khách quan của chủ thể tổ chức, nhằm làm cho các công việc, nhiệm vụ đạt hiệu quả mong muốn và đạt mục tiêu đề ra. Tổ chức hoạt động có các chức năng cơ bản: Thứ nhất, chức năng lập kế hoạch: là một quá trình từ việc xác định mục tiêu và hoạch định các biện pháp thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Thứ hai, chức năng tổ chức: là đảm bảo tất các các hoạt động và các tiến trình được sắp xếp, giúp cho một tổ chức có thể đạt được các mục tiêu đề ra. Thứ ba, chức năng lãnh đạo, điều khiển: là việc thực hiện các công việc lãnh đạo, điều hành, dẫn dắt, hỗ trợ của các nhà
  • 16. với các nhân viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu trong kế hoạch đã được xác lập. Thứ tư, chức năng kiểm tra: là việc thiết lập được các tiêu chuẩn, quy trình kiểm tra, đo lường và phân tích các kết quả các nhà quản lý xác định được là tổ chức có đạt được các mục tiêu đề ra hay không, và có được liên kết chặt chẽ với việc lập kế hoạch hay không, và nếu không đạt được thì phải cải thiện việc thực hiện nhằm tăng cơ hội đạt được mục tiêu. 1.1.2. Khái niệm tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo Để có cơ sở tìm hiểu về tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo, thì cũng cần làm rõ một số vấn đề về kiểm định chất lượng. Bởi lẽ, tự đánh giá là một khâu, một nhiệm vụ của quá trình kiểm định chất lượng giáo dục. Kiểm định chất lượng giáo dục trường là hoạt động đánh giá mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định đối với trường ở từng trình độ đào tạo. Kiểm định chất lượng là một hệ thống tổ chức và biện pháp để đánh giá và công nhận chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo theo các chuẩn mực được quy định. Nói cách khác, đó là quá trình đánh giá bên ngoài dựa vào kết quả tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học hay ngành đào tạo để công nhận mức độ đáp ứng mục đích, mục tiêu đào tạo của cơ sở đó. Thực chất của kiểm định là: Chứng nhận cơ sở đào tạo đạt được những tiêu chuẩn cơ bản về nguồn lực và các chỉ số chất lượng. Là sự bảo đảm với công chúng rằng cơ sở đào tạo đạt được những chuẩn mực chất lượng cơ bản. Những chương trình đào tạo và cơ sở đào tạo đạt chuẩn sau khi kiểm định sẽ được thông báo công khai cho người học, người sử dụng lao động và toàn xã hội như một bằng chứng bảo đảm cho chất lượng đào tạo của các cơ sở và các chương trình đào tạo đó. Việc kiểm định chất lượng đào tạo của một cơ sở đào tạo có nội dung quan trọng là đánh giá hệ thống quản lý chất lượng của cơ sở đó và chứng minh được rằng hệ thống quản lý chất lượng là có hiệu
  • 17. của kiểm định chất lượng không chỉ là đảm bảo nhà trường có trách nhiệm đối với chất lượng đào tạo mà còn mang lại động lực cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo cũng như chất lượng toàn trường. Đặc trưng của kiểm định chất lượng là có thể được tiến hành ở phạm vi trường hoặc chương trình đào tạo. Đây là một hoạt động hoàn toàn tự nguyện. Kiểm định chất lượng không thể tách rời công tác tự đánh giá. Các chuẩn mực đánh giá rất mềm dẻo và được biến đổi cho phù hợp với sự mệnh của từng trường. Kiểm định chất lượng cấp trường và kiểm định chương trình không chỉ tập trung đánh giá các yếu tố đầu vào mà còn tập trung vảo cả quá trình đào tạo và chất lượng học viên khi ra trường. Trong kiểm định chất lượng giáo dục, quy trình diễn ra bao gồm các bước: Một là, tự đánh giá. Hai là, đánh giá ngoài. Ba là, chứng nhận và công bố kết quả kiểm định. Trong đó, tự đánh giá (self-evaluation) là khâu đầu tiên trong tổng thể các hoạt động kiểm định chất lượng. Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo còn gọi là đánh giá trong, là hoạt động đánh giá nội bộ do tập thể nhà trường thực hiện theo những quy trình và nội dung có tính chuẩn mực. Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là một phần, một khâu của quá trình đánh giá, cùng với đánh giá ngoài tạo nên đánh giá hoàn chỉnh. Tự đánh giá là nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ sở đào tạo trong quá trình hình thành, phát triển, nó được thực hiện trong quá trình tổ chức kiểm định các cơ sở đào tạo đại học theo chủ trương, chính sách, kế hoạch triển khai của cơ quan có thẩm quyền. Từ kết quả nghiên cứu các tài liệu, các văn bản pháp quy về công tác kiểm định chất lượng ở các nhà trường đại học, có thể hiểu: Tự đánh giá là quá trình các nhà trường đại học căn cứ vào bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục để tiến hành tự xem xét, nghiên cứu và báo cáo về tình trạng chất lượng, hiệu quả các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, từ đó điều
  • 18. lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo đã đề ra. Tự đánh giá có ý nghĩa quan trọng bởi vì nó chứng tỏ nếu nhà trường làm được việc này là nhà trường có ý thức và khả năng thực hiện tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của mình trong toàn bộ các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ xã hội theo chức năng mà cấp trên và xã hội giao cho nhà trường. Tự đánh giá đòi hỏi tính khách quan, trung thực và công khai. Các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra trong quá trình tự đánh giá phải dựa trên các thông tin, minh chứng cụ thể, rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy. Báo cáo tự đánh giá phải bao quát đầy đủ các tiêu chí trong tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà trường. Mục đích của tự đánh giá là làm rõ thực trạng quy mô, chất lượng và hiệu quả các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ xã hội theo chức năng, nhiệm vụ của nhà trường và phù hợp với tôn chỉ mục đích và sứ mạng của nhà trường trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, nó xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn kiểm định Nhà nước hoặc hiệp hội đã công bố xem đạt đến mức nào (cụ thể là đánh giá thực trạng các hoạt động tổ chức quản lý và các điều kiện bảo đảm chất lượng cho đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ của nhà trường: từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên, chương trình, giáo trình đào tạo... đến các nguồn kinh phí và dịch vụ học viên xem đạt đến mức nào của các tiêu chuẩn đòi hỏi). Quá trình tự đánh giá cũng xác định rõ tầm nhìn, các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức của cơ sở giáo dục đào tạo và đề xuất ra các chiến lược, kế hoạch, biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ của cơ sở đào tạo liên tục phát triển. Kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền như bộ chủ quản hay lãnh đạo địa phương chỉ đạo và cung cấp các biện pháp hỗ trợ cho nhà trường không ngừng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình.
  • 19. có ưu điểm là do chính những thành viên của nhà trường trực tiếp thực hiện. Họ là những người hiểu rõ trường đại học hay chương trình đào tạo của họ hơn ai hết. Nhưng tự đánh giá thường thiếu khách quan và do những người không chuyên thực hiện. Ngược lại, đánh giá đồng nghiệp hay đánh giá bên ngoài là một quá trình nhằm làm tăng thêm giá trị của kết quả tự đánh giá. Đánh giá đồng nghiệp do các chuyên gia tốt nhất trong cùng một lĩnh vực chuyên môn triển khai thực hiện. Quá trình đánh giá đồng nghiệp nhằm làm sáng tỏ thêm những vấn đề chưa được đềcập đầy đủ trong báo cáo tự đánh giá và nhằm tăng thêm tính giá trị của chính bản báo cáo tự đánh giá. Một biện pháp để kiểm soáttính trung thực của báo cáo tự đánh giá và báo cáo của đoàn chuyên gia đánh giá bên ngoài là công bố công khai hai báo cáo này trên các thông tin đại chúng. 1.1.3. Khái niệm về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường đại học Từ những khái niệm về tổ chức, tổ chức hoạt động và khái niệm tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo, có thể đưa ra quan niệm về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo như sau: Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là sự tác động có định hướng, có mục đích và có hệ thống của chủ thể đối với quá trình tự xem xét, nghiên cứu trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông qua việc lập kế hoạch, triển khai, điều khiển, thực thi và kiểm tra nhằm thựchiện có hiệu quả hoạt động tự đánh giá góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học là một khâu rất quan trọng trong quá trình quản lý chất lượng giáo dục. Thông qua hoạt động này nhằm giúp các nhà quản lý, chỉ huy rà soát, xem xét, đánh giá thực trạng giáo dục - đào tạo của cơ sở đào tạo, từ đó để điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch đào tạo cho những năm tiếp theo.
  • 20. tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là nhằm điều khiển, hướng dẫn quá trình tự đánh giá đạt tới mục đích đúng với quy trình, đạt được mục tiêu theo những tiêu chí, tiêu chuẩn đã xác định. Trên cơ sở đó xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn kiểm định của Nhà nước đã công bố xem đạt được đến mức nào. Từ đó, xác định rõ tầm nhìn, các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức của cơ sở đào tạo và đề xuất ra các chiến lược, kế hoạch, biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học. Chủ thểtổ chức hoạtđộngtựđánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học là Thủ trưởng nhà trường, cơ quan Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo, các cơ quan chức năng, đơn vị và các khoa giáo viên. Đối tượng của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học là việc xác định, tổ chức thực hiện quy trình tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường và hoạt động của các lực lượng tham gia vào hoạt động tự đánh giá. Phương thức tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là tổng hợp các cách thức, biện pháp tác động đến toàn bộ các hoạt động giáo dục của các trường đại học, nhằm thực hiện có chất lượng hoạt động giáo dục theo mục tiêu giáo dục- đào tạo đã đặt ra. Tổ chức hoạtđộngtựđánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đạihọc đòihỏi sựnghiêm túc, chặt chẽ, tự giác, khách quan của mọi thành viên các cơ quan, ban, ngành trong nhà trường để xem xét lại quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục và kết quả của công tác giáo dục trong thời gian qua. Tổ chức hoạtđộngtự đánhgiá chấtlượng giáo dục - đào tạo là cơ hộitốt đểmọi cán bộ, giảng viên, nhân viên đánh giá đúng chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường, qua đó, rút ra được những điểm mạnh, điểm yếu, những vấn đề còn bất cập cần khắc phục để từ đó đề ra các mục tiêu quản lý phù hợp hơn.
  • 21. chứchoạtđộngtựđánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường là hoạt động thường xuyên, liên tục, đòi hỏi nhiều công sức, thời gian, có sự tham gia của nhiều bộ phận, cá nhân trong nhà trường. Khi tổ chức hoạtđộngtự đánh giá chất lượng giáo dục đòihỏi tínhkhách quan, trung thực và công khai. Các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra trong báo cáo tự đánh giá phải dựa trên các số liệu cụ thể, rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, bao quát đầy đủ trong các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo. 1.2. Nội dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học Trongtoàn bộ quátrìnhtự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo thì vấn đềchínhlà phát huy một cách tối đa mọi tiềm năng, trí tuệ, sự năng động, sáng tạo, tínhtíchcực hoácủa chủ thể và đốitượng quảnlý giáo dục, cũngchỉ có như thế thì chấtlượng hoạt độngtựđánh giá mới thực sựcó hiệu quả; đúc rút ra được những kinh nghiệm quý giá của quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo, góp phầnnâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Nhờ thông qua tự đánh giá mà chủ thể quản lý ở nhà trường biết được hiện trạng chất lượng giáo dục - đào tạo của mình đangnhư thế nào cả về ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm. Từ đó, đề ra những phương cách cải tiến, nâng cao chất lượng các hoạt độngđào tạo, đồng thời cung cấp căn cứ để đăng ký kiểm định chất lượng đào tạo nhằm xác định mức độ đáp ứng mục tiêu đào tạo đã đề ra. Từ mục tiêu quản lý, chủ thể là thủ trưởng nhà trường; lãnh đạo, chỉ huy các phòng, ban, khoa, đơnvị quản lý học viên, sinh viên; đặc biệt là Hội đồng tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường thực hiện việc xây dựng nội dung, kế hoạch, phương pháp quản lý; kiểm tra, đánh giá một cách khách quan, khoa học, đồng bộ và có tính khả thi, đồng thời bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, các trang thiết bị, đầu tư về tài lực, vật lực nhằm gia tăng thúc đẩy quá trình tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đạt được hiệu quả cao.
  • 22. động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường đại học là trách nhiệm của các cấp quản lý, được thực hiện trong quy trình tổ chức kiểm định chất lượng trường theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ chủ quản nhằm mục đích để kiểm soát chất lượng đào tạo, trên cơ sở đó để nâng cao chất lượng công tác giáo dục - đào tạo của nhà trường. Nội dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục- đào tạo ở trường đại học bao gồm: 1.2.1. Xây dựng kế hoạch tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo Để tổ chức thực hiện được hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục thì việc xây dựng kế hoạch là hành động đầu tiên của người quản lí, là việc làm cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Trong quản lí, đây chính là căn cứ mang tính pháp lí quy định hành động của cả tổ chức. Kế hoạch tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là do Hội đồng tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo xây dựng nhằm sửdụng có hiệu quả thời gian và các nguồn lực của nhà trường để đảm bảo đạt được mục đích đề ra. Kế hoạchtự đánh giá sau khi thông qua Hội đồng tự đánh giá phải được Giám đốc (Hiệu trưởng) phê chuẩn. Trong kế hoạchtự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo phải thể hiện được mục đích, phạmvi, nội dung tự đánh giá của nhà trường. Mục đích của tự đánh giá là nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng đào tạo và đăng ký kiểm định chất lượng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ chủ quản; khảo sát, đánh giá thực trạng đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, cơ sở vật chất và các vấn đề liên quan khác tại nhà trường. Từ đó, xây dựng kế hoạch hành động để đảm bảo các nguồn lực nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn trường đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định; xây dựng văn hoá chất lượng trong nhà trường; làm cho mọi cán bộ, giảng viên, học viên, sinh viên, công nhân viên đều xác định rõ trách nhiệm của bản thân trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
  • 23. đánh giá, các cơ quan, đơn vị, nhóm chuyên trách và cá nhân căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ triển khai công tác tự đánh giá tại cơ quan, đơn vị mình; lập các báo cáo theo yêu cầu và kế hoạch của Hội đồng tự đánh giá; việc báo cáo tự đánh giá phải đảm bảo phân tích, nhận định, trên cơ sở các thông tin và minh chứng chỉ ra được thực trạng những điểm mạnh, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân và kế hoạch hành động. Do vậy, yêu cầu các cơ quan, đơn vị, nhóm công tác khi tự đánh giá phải khách quan, đúng thực chất. Phạm vi tự đánh giá là đánh giá một cách tổng thể các hoạt động của nhà trường trong 5 năm trở lại đây theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường Đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các quy định, hướng dẫn tự đánh giá của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục. Nội dung của tự đánh giá là căn cứ vào bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, ban hành kèm theo Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007 và Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ- BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và các tài liệu hướng dẫn khác, bao gồm 10 tiêu chuẩn với 61 tiêu chí. 1.2.2.Tổ chức, phối hợp, sử dụng các lực lượng cho hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường đại học Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo bao gồm nhiều lực lượng ở các bộ phận khác nhau và việc thành lập thành Hội đồng tự đánh giá do Giám đốc (Hiệu trưởng) quyết định thành lập. Các thành viên trong Hội đồng được phân chia thành các nhóm công tác và được phân chia phụ trách tự đánh giá các nhóm tiêu chí khác nhau. Chính vì vậy việc phối hợp, sử dụng các lực lượng tham gia hoạt động tự đánh giá là rất quan trọng. Người quản lý tổ chức, sử dụng lực lượng tham gia vào hoạt động tự đánh giá cần coi trọng quản lý việc
  • 24. vụ và quyền hạn của mỗi cá nhân, bộ phận trong tổ chức, phối hợp thực hiện công tác tự đánh giá. Trong đó: Hội đồng tự đánh giá có chức năng triển khai tự đánh giá và tư vấn cho Giám đốc (Hiệu trưởng) về các biện pháp nâng cao chấtlượng các hoạtđộngcủa nhà trường. Hội đồng tự đánh giá có các nhiệm vụ phổ biến chủ trương về việc triển khai tự đánh giá; giới thiệu quy trình tự đánh giá, trao đổi kinh nghiệm tự đánh giá và yêu cầu các đơn vị, cá nhân trong trường phối hợp thực hiện. Để hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đạt chất lượng nhà quản lý lựa chọnđược các thành viên Hội đồngcó phẩm chất, năng lực, có kinh nghiệm trong công tác giáo dục- đào tạo. Đặc biệt, khi phân công các nhóm công tác cần phải bố trí những người đang phụ trách đúng mảng công việc mà họ đang làm, điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thu thập thông tin minh chứng. Các uỷ viên Hội đồng tự đánh giá có nhiệm vụ thực hiện và chịu trách nhiệm về những công việc do Chủ tịch Hội đồng phân công. Giúp việc cho Hội đồng tự đánh giá là Ban thư ký do trưởng đơn vị (bộ phận) chuyên trách về đảm bảo chất lượng làm trưởng ban. Thành viên Ban thư ký bao gồm các cán bộ của đơn vị (bộ phận) chuyên trách về đảm bảo chất lượng và các cán bộ khác do Hội đồng đề cử. Các thành viên của Ban thư ký được tổ chức thành các nhóm công tác chuyên trách (gọi là nhóm công tác). Mỗi nhóm công tác có 4 - 5 người, phụ trách 1-2 tiêu chuẩn và do một thành viên của Hội đồng phụ trách. Mỗi thành viên của Ban thư ký có thể tham gia không quá 2 nhóm công tác chuyên trách. Các đơn vị (bộ phận) liên quan khác trong trường có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ các nhóm công tác triển khai tự đánh giá. Ban thư kí có nhiệm vụ giúp đỡ Hội đồng tự đánh giá trong tổ chức hoạt động tự đánh giá và tổng hợp báo cáo tự đánh giá của các nhóm. Ban thư
  • 25. trò quan trọng trong thu thập và chuẩn bị các tài liệu cho các giai đoạn tự đánh giá: thu thập minh chứng, thẩm định báo cáo tiêu chí, hoàn thiện báo cáo tự đánh giá, thẩm định báo cáo tự đánh giá. Chọn người vào ban thư kí không chỉ là người có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình mà còn phải có năng lực tổ chức và năng lực soạn thảo văn bản. Cần có sự phối hợp giữa các nhóm chuyên trách trong quá trình tự đánh giá, các buổi thảo luận chung giữa các nhóm chuyên trách, giữa các nhóm chuyên trách với Hội đồng tự đánh giá về các báo cáo tiêu chí/tiêu chuẩn. Hội đồng tự đánh giá được phép thuê chuyên gia tư vấn giúp Hội đồng triển khai hoạt động tự đánh giá. Chuyên gia tư vấn phải có trình độ thạc sĩ trở lên, có hiểu biết sâu về đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục, tự đánh giá và các kỹ thuật cần thiết cho tự đánh giá. Chuyên gia tư vấn có nhiệm vụ trong quá trình triển khai tự đánh giá: Một là, tư vấn lựa chọn minh chứng thích hợp: chuyên gia tư vấn hướng dẫn tìm minh chứng, giúp khẳng định minh chứng hợp lí hay chưa hợp lí hoặc các minh chứng gián tiếp có thể chấp nhận được. Hai là, hoàn thiện các báo cáo tiêu chí: chuyên gia tư vấn sẽ góp ý cho bản phác thảo báo cáo tiêu chí đầu tiên. Giúp người viết báo cáo tiêu chí viết đúng các yêu cầu của một báo cáo tiêu chí. Cần lưu ý rằng, chuyên gia tư vấn không nắm được nội tình của cơ sở đào tạo, chỉ có thể góp ý để viết đúng yêu cầu của một báo cáo tiêu chí. Vì vậy, tốt nhất là nên tổ chức thẩm định báo cáo tiêu chí chung có mặt tất cả các thành viên hội đồng tự đánh giá và ban thư kí. Vì qua đó các thành viên mới góp ý được đầy đủ, chính xác hiện trạng, điểm mạnh, điểm tồn tại và kế hoạchkhắc phục hợp lí, đúng đắn cho từng báo cáo tiêu chí. Cũng qua đó mọi thành viên đều biết viết thế nào là đạt yêu cầu, hiện trạng cơ sở mình đã đáp ứng yêu cầu của tiêu chí đến đâu, điểm mạnh là gì, điểm yếu là gì, hướng khắc phục nó thế nào. Qua đó, xây dựng được văn hoá chất lượng cho cơ sở đào tạo của mình. Ba là, hoàn thiện các báo cáo tiêu chuẩn: chuyên
  • 26. giúp hoàn thiện báo cáo tiêu chuẩn thông qua góp ý, sửa chữa theo đúng yêu cầu của báo cáo tiêu chuẩn. Bốn là, hoàn thiện báocáo tự đánh giá: thông thường, sau khi ghép các phần thành báo cáo tự đánh giá. Chuyên gia tư vấn giúp xem lại toàn bộ trước khi đưa ra hội đồng tự đánh giá thẩm định. Năm là, thúc đẩy thực hiện đúng tiến độ tự đánh giá: ngoài các vai trò nêu trên, chuyên gia tư vấn còn góp phần đảm bảo tiến độ tự đánh giá theo đúng kế hoạch đề ra. Vì một khi kế hoạch chuyên gia tư vấn đến làm việc đã định, thì mọi thành viên tham gia viết báo cáo tự đánh giá đều phải đảm bảo đúng tiến độ, mà nhiều khi người trong cuộc - Ban thư kí thúc đẩy đúng hạn không được, nhưng lên lịch làm việc với chuyên gia tư vấn thì mọi thành viên thậm chí phải làm thêm giờ để cho đúng hạn. 1.2.3. Tổchức thực hiện tự đánhgiá theo các tiêu chuẩn quản lý chất lượng giáo dục - đào tạo. Tổ chức thực hiện tự đánh giá theo các tiêu chuẩn quản lý chất lượng giáo dục - đào tạo là một nội dung quan trọng, quyết định đến chất lượng công tác tổ chức tự đánh giá của nhà trường. Trong quá trình tổ chức thực hiện tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo cần bám sát vào các tiêu chuẩn và quy trình đánh giá chất lượng giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong đó cần lưu ý: Vềsứ mạng và mục tiêu của trường đại học. Đây là căn cứ này để nhà trườngxác định rõ về sứ mạng và mục tiêu của mình, điều chỉnh chúng sao cho phùhợp vớichiến lược quốc phònganninh củađấtnước trongtừnggiai đoạn lịch sử, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và nguồn lực của nhà trường. Về tổ chức và quản lý. Trường đại học là thành viên trong hệ thống các học viện, nhà trường của Quốc gia, chịu sự quản lý về mặt nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo và bộ chủ quản (nếu có); vì vậy cơ cấu tổ chức của nhà trường vừa tuân thủ theo quy định của bộ chủ quản; đồng thời phải phù hợp
  • 27. chung của các trường đại học khác ở trong nước và Điều lệ đại học. Hệ thống văn bằng về tổ chức và quản lý được ban hành đầy đủ, rõ ràng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của nhà trường và theo các quy định chung của bộ chủ quản và của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Về chương trình giáo dục. Chương trình, nội dung đào tạo là cơ sở nền tảng ban đầu góp phần quyết định chất lượng đào tạo. Nếu xác định chính xác mục tiêu đào tạo cho từng đối tượng sẽ là cơ sở xác định nội dung, chương trình đào tạo phù hợp. Tự đánh giá chất lượng đào tạo phải căn cứ từ mục tiêu đào tạo, quá trình đánh giá phải xem xét mức độ phù hợp hay chưa phù hợp của chương trình, nội dung với mục tiêu đào tạo để đánh giá một cách xác thực kết quả và chất lượng đào tạo.Việc xây dựng chương trình, nội dung đào tạo của nhà trường được thực hiện theo quy trình và trên cơ sở chương trình khung do Giáo dục và Đào tạo quy định, có sự tham gia của các chuyên gia, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục. Sự đảm bảo liên thông giữa các trình độ trong chương trình, nội dung đào tạo; và định kỳ đánh giá, thực hiện cải tiến chúng; việc đa dạng hoá các hình thức đào tạo, đáp ứng yêu cầu học tập của người học theo quy định. Về hoạt động đào tạo. Để đánh giá được tiêu chuẩn này cần căn cứ vào các nội dung sau: Việc đa dạng hoá các hình thức đào tạo, đáp ứng yêu cầu học tập của học viên theo quy định; việc thực hiện công nhận kết quả học tập của người học theo niên chế kết hợp với học phần; có kế hoạch chuyển quy trình đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ có tính linh hoạt và thích hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người học; có kế hoạch và phương pháp đánh giá hợp lý các hoạt động giảng dạy của giảng viên; chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của người học theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm của người học; phương pháp và quy trình kiểm tra đánh giá được đa
  • 28. bảo nghiêm túc, khách quan, chính xác, công bằng và phù hợp với hình thức đào tạo, hình thức học tập, mục tiêu môn học và đảm bảo mặt bằng chất lượng giữa các hình thức đào tạo; đánh giá được mức độ tích luỹ của người học về kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành và năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề; có cơ sở dữ liệu về hoạt động đào tạo của nhà trường, tình hình học viên tốt nghiệp, tình hình thích ứng với công việc sau khi tốt nghiệp; kết quả học tập của học viên được thông báo kịp thời, được lưu trữ đầy đủ, chính xác và an toàn; văn bằng, chứng chỉ được cấp theo quy định và được công bố trên trang thông tin điện tử của nhà trường; có kế hoạch đánh giá chất lượng đào tạo đối với học viên, sinh viên sau khi ra trường và kế hoạch điều chỉnh hoạt động đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy định. Về đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên. Giảng viên ở các nhà trường đại học vừa đảm nhiệm việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia biên soạn các chương trình, giáo trình và tài liệu phục vụ cho nhiệm vụ đào tạo; đồng thời là những người hướng dẫn học viên, sinh viên tập dượt nghiên cứu khoa học. Đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học vấn cao, có năng lực và nghiệp vụ sư phạm giỏi, có trình độ quản lý tốt là yếu tố quyết định để đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường. Về người học. Số lượng và chất lượng học viên, sinh viên được đánh giá ở các kỳ thi tuyển đầu vào hàng năm của nhà trường; trong đó số lượng học viên, sinh viên tuyển chọn phải được so sánh với chỉ tiêu được giao. Mặt khác, chất lượng học tập, tự học, tự nghiên cứu, các hoạt động khoa học, các hoạt động ngoại khoá, trình độ, năng lực chuyên môn chuyên ngành, các kiến thức và hiểu biết về thực tiễn xã hội cũng như khoa học xã hội nhân văn…của học viên, sinh viên là điều kiện quan trọng đảm bảo chất lượng đào tạo ở nhà trường, nhóm này gồm có các tiêu chí sau: Quy định và tiêu chí tuyển sinh; năng lực của học viên, sinh viên; phẩm chất nhân cách của học viên, sinh viên.
  • 29. khoa học, ứng dụng phát triển và chuyển giao công nghệ. Nghiên cứu khoa học ở trường đại học là nhiệm vụ quan trọng nhằm phục vụ trực tiếp cho giáo dục, đào tạo; đồng thời nó cũng là một trong những yêu cầu và nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên; kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ tạo động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo; tiêu chuẩn này gồm các nội dung sau: Các khoa và các giảng viên luôn gắn nghiên cứu khoa học với quá trình giáo dục - đào tạo. Những đóng góp mới cho khoa học và giá trị ứng dụng thực tế trong các đề tài nghiên cứu của nhà trường để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và sự phát triển lý luận, thực tiễn chính trị và kinh tế - xã hội của đất nước. Về hoạt động hợp tác quốc tế. Đây là một trong những nhiệm vụ của trường đại học. Nội dung để đánh giá tiêu chuẩn này cần chú ý: các hoạt động hợp tác quốc tế được thực hiện theo quy định của Nhà nước; các hoạt động hợp tác quốc tế về đào tạo có hiệu quả, thể hiện qua các chương trình hợp tác đào tạo, trao đổi học thuật; các chương trình trao đổi giảng viên và người học, các hoạt động tham quan khảo sát, hỗ trợ, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị của trường đại học; các hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học có hiệu quả, thể hiện qua việc thực hiện dự án, đề án hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, các chương trình áp dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào thực tiễn, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học chung, công bố các công trình khoa học chung. Về thư viện, trang thiết bị dạy học và cơ sở vật chất. Yêu cầu đối với tiêu chuẩn này là đánh giá mức độ việc đáp ứng nhu cầu đào tạo, nghiên cứu khoa học của thư viện. Hoạt động của hệ thống thư viện của nhà trường có đầy đủ các văn bản quy định về quản lý, sử dụng và hướng dẫn; các tài liệu đã được số hóa trong hệ thống thư viện điện tử, thường xuyên cập nhật, bổ sung. Hệ
  • 30. có đầy đủ giáo khoa, giáo trình, sách, tài liệu phục vụ tốt cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học. Việc đầu tư mua sắm trang thiết bị cho các phòng học, nâng cấp, hiện đại hóa, xây dựng mới các phòng học chuyên dụng cho các khoa; xây dựng hệ thống camera quan sát giảng đường và khu huấn luyện; có mạng máy tính nội bộ, mạng internet, phục vụ hiệu quả cho cán bộ, giảng viên và học viên giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học; có các phòng đa năng với đầy đủ hệ thống máy tính, máy chiếu và các phần mềm chuyên dùng phục vụ cho ngành đào tạo; có các phần mềm quản lý để hỗ trợ các cơ quan chức năng. Về tài chính và quản lý tài chính. Cần nghiên cứu các văn bản duyệt phân bổ ngân sách của trên cho các hoạt động và các cơ quan, đơn vị; các quy định của nhà trường về tận dụng các nguồn thu hợp pháp đáp ứng hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học công nghệ và các hoạt động khác của nhà trường. Công tác quản lý tài chính thực hiện chặt chẽ, không để xẩy ra tình trạng tham ô, lãng phí, thất thoát; phân bổ và phân cấp quản lý thu - chi ngân sách bảo đảm minh bạch, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và phát huy vai trò kiểm soát của cơ quan tài chính. Công tác tài chính tuân thủ nghiêm các quy định trong điều lệ công tác tài chính và các quy định hiện hành của Nhà nước và của bộ chủ quản. Viết báo cáo tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo và lấy ý kiến chuyên gia Kết quả tự đánh giá được trình bày dưới dạng một bản báo cáo của nhà trường theo các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng như đã đề cập. Báo cáo tự đánh giá là mộtbản ghi nhớ quantrọng nhằm camkết thực hiện các hoạtđộng cải tiến chất lượng của trường. Báo cáo tự đánh giá phải mô tả một cách ngắn gọn, rõ ràng, chínhxác vàđầyđủcác hoạt động của trường, trong đó phải chỉ ra những điểm mạnh, những tồn tại, khó khăn và kiến nghị các biện pháp cải tiến chất lượng, kế hoạch thực hiện, thời hạn hoàn thành báo cáo.
  • 31. đánh giá được trình bày lần lượt theo các tiêu chuẩn đánh giá chấtlượng. Kết quảđánhgiá từng tiêu chí được tổng hợp vào bảng tổng hợp kết quả tự đánh giá và thông qua phân tích các minh chứng đã thu thập được. Báo cáo tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là một thể thống nhất, các tiêu chuẩn, tiêu chí có tính độc lập tương đối nhưng phải kết dính với nhau thành hệ thống làm nổi bật những đặc trưng, để khi đọc, người ta phải thấy rõ mặt mạnh, mặt yếu cơ bản trong hoạt động đào tạo của nhà trường. Khi liên kết các báo cáo tiêu chí, các nhận định đánh giá, điểm mạnh điểm yếu, đề ra kế hoạch biện pháp khắc phục đòi hỏi trí tuệ của tập thể cán bộ, giảng viên, của Hội đồng tự đánh giá, Ban Giám đốc (Ban Giám hiệu) nhà trường. Những vấn đề trong báo cáo tự đánh giá liên quan tới toàn bộ chiến lược xây dựng và phát triển nhà trường nhằm nâng cao chất lượng. Vì thế, việc thẩm định lại báo cáo tiêu chí do các nhóm chuyên trách đã viết, liên kết thành báo cáo tổng hợp do thư kí Hội đồng tự đánh giá thực hiện đòi hỏi sự đầu tư trí tuệ, thời gian, chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng tự đánh giá và thủ trưởng nhà trường. 1.2.4.Kiểm tra và đánhgiá kếtquả hoạtđộng tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo Kiểm tra, kiểm soát là chức năng của hoạt động quản lý giáo dục nói chung, của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo ở các trường đại học nói riêng; đồng thời đây cũng là việc làm thường xuyên của ban chỉ đạo, cơ quan chức năng và cán bộ quản lý giáo dục các cấp. Nội dung kiểm tra bao gồm toàn bộ hoạt động, các khâu, các bước trong quy trình của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo. Quá trình kiểm tra phải căn cứ vào các định mức, các chuẩn mực mà kế hoạch đã đề ra để đánh giá hiệu quả của hoạt động của tổ chức và đưa ra các biện pháp thíchhợp nhằm đạt được mục tiêu của kế hoạch. Như vậy, kiểm tra bao hàm cả kiểm tra cái đã làm và qua đó điều chỉnh cái sẽ làm.
  • 32. kiểm tra, kiểm soát cơ quan chuyên trách phải xác định rõ các mục tiêu, kết quả đã đạt theo kế họach đã định; bảo đảm các nguồn lực được sử dụng một cách hữu hiệu; xác định chính xác, kịp thời các sai sót và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận trong quá trình thực hiện công tác tự đánh giá; tạo điều kiện thực hiện thuận lợi các chức năng ủy quyền, chỉ huy, quyền hành và chế độ trách nhiệm; đúc rút, phổ biến kinh nghiệm, cải tiến công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo có như vậy mới tránh được những sai sótvà lãng phí thời gian, công sức, góp phần tạo nên hiệu quả của hoạt động này. 1.3. Các nhân tố tác động tới tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị Một là, yêu cầu của nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo đại học và yêu cầu của quân đội về nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo ở các nhà trường, học viện. Nghị quyếtHội nghị Trung ương 8 khóaXI về đổimới cănbản, toàn diện giáo dục và đào tạo đãxác định: “Pháttriển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồidưỡngnhân tài. Chuyển mạnh quá trìnhgiáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn...” [14, tr 4] Từđó, mục tiêucủagiáo dục con người ở bậc đại học là: “Đào tạo người học có phẩmchấtchínhtrị, đạo đức, cóýthức phục vụ nhân dân có kiến thức và năng lực thực hànhnghề nghiệp tươngxứng vớitrìnhđộ đào tạo,cósứckhoẻđáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [25, tr.35, 36]. Đối với các nhà trường, học viện của quân đội với phương hướng giáo dục - đào tạo: Đổi mới toàn diện công tác giáo dục- đào tạo và xây dựng nhà trường quân đội theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”, tạo sự chuyển biến cơ bản và vững chắc về chất lượng, hiệu quả giáo dục- đào tạo và nghiên cứu
  • 33. tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân [15, tr.12]... Mục tiêu đào tạo mang tính toàn diện đối với các cấp học, bậc học, ngành học, trong đó mục tiêu “Đào tạo cán bộ cấp chiến thuật- chiến dịch theo chức vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng; có kiến thức sâu sắc về chuyên ngành, có trình độ ngoại ngữ, tin học; có tư duy sáng tạo, khả năng nghiên cứu, đề xuất các vấn đề thuộc quyền hạn, trách nhiệm được giao; có năng lực thực hành nhiệm vụ theo cương vị phụ trách” [15, tr.14]. Học viện Chính trị là nơi đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị, đội ngũ giảng viên, những nhà khoa học có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, có trìnhđộ cao vềlý luận chủ nghĩaMác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quanđiểm của Đảng, là chuyên gia giỏi tronglĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tích cực, chủ động tham gia có hiệu quả trong đấu tranh tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, trực tiếp tạo ra nguồn nhân lực mới cho quân đội. Để đạt được mục đích ấy, Học viện Chính trị phải thường xuyên đổi mới tư duy về giáo dục - đào tạo, đẩy mạnh việc đổi mới công tác tổ chức tự đánh giá chất lượng giáo dục và phát huy hơn nữa vai trò, chức năng, nhiệm vụ của côngtác này, đồngthời làm cho nó thực sựmang lại hiệu quả, thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện. Hai là, sự tác động của nhiệm vụ giáo dục - đào tạo trong các nhà trường, học viện của quân đội tới tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị. Do tính chất yêu cầu nhiệm vụ giáo dục - đào tạo ở các nhà trường, học viện trong quân đội hiện nay ngày càng phát triển, khối lượng công việc ngày càng tăng, hình thức đào tạo ngày càng mở rộng theo nhiều cấp học, bậc học, kết hợp đào tạo theo học vấn và theo chức danh, đồng thời kết hợp thực hiện nhiều nhiệm vụ liên quan khác. Để đáp ứng với yêu cầu
  • 34. lượng đào tạo cán bộ, sĩ quan quân đội, việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nhà trường quân đội là một trong những vấn đề rất quan trọng. Như vậy, các học viện, nhà trường cần thực hiện tốt công tác tự đánh giá chất lượng giáo - đào tạo. Thực tế cho thấy, nếu mở rộng nhiệm vụ đào tạo và tăng lưu lượng người học mà không chú trọng đến công tác tự đánh giá thì sẽ ảnh hưởng một các trực tiếp đến chất lượng giáo dục - đào tạo. Học viện Chính trị đã và đang trong quá trình chuẩn hóa, hiện đại hóa, có sự thay đổi, chuyển dịch về cơ cấu, tổ chức, biên chế và nhiệm vụ đào tạo, đối tượng đào tạo ngày càng đa dạng, phong phú. Thực tế hiện nay, đối tượng đào tạo ở Học viện rất đa dạng: đào tạo giảng viên chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn quân sự, chính ủy các quân binh chủng, đào tạo sau đại học ngoài ra còn đào tạo cán bộ cho Bộ Công an, đào tạo cán bộ quân đội cho Lào và Campuchia, các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh đối tượng 2. Điều đó cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với công tác đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo, trong đó có công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục- đào tạo đã và đang gặp những thời cơ thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn. Trước sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ và sự gia tăng đối tượng đào tạo, nhất thiết phải xây dựng và hoàn thiện các quy định, bộ tiêu chí; kiện toàn, bồi dưỡng lực lượng cán bộ chuyên trách làm tốt công tác này. Ba là, tácđộng từcơ chếtổ chứccủa hệ thống quản lý đến tổ chức hoạt động tự đánh giá ở Học viện. Trong những nhân tố tác động đến hoạt động tổ chức tự đánh giá chất lượng giáo dục của Học viện, thì cơ chế tổ chức của hệ thống quản lý có vai trò rất quan trọngđốivới hoạtđộngtự đánh giá. Cơ chế tổ chức của hệ thống quản lý thể hiện ở những quychế, quy định củaBộ Giáo dục và Đào tạo, củaBộ Quốc
  • 35. thí và kiểm định chất lượng giáo dục, trongđó có hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế phối hợp giữa các lực lượng quản lý điều hành và sựlinh hoạt hay trì trệ tronghoạt động của bộ máy quản lý hoạtđộngđánh giá chất lượng giáo dục, cơ chếquảnlý, điều hành hoạt độngnày phù hợp hay không phù hợp sẽ đem đến sự thuận lợi hay khó khăn cho hoạt độngtự đánh giá củaHọc viện, đồngthời tác độngđến hiệu lực của toàn bộ quá trình quản lý. Bốn là, tác động từ phương pháp và sự định chuẩn của tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục cho các đối tượng đào tạo ở Học viện. Ở Học viện chínhtrị, từ khi hoạtđộngkhảo thí và kiểm định chất lượng đi vào hoạt động thì đã triển khai các đề án, đề tài, công trình nghiên cứu đề xuất các phươngpháp và tiêu chí đánhgiá chấtlượng giáo dục - đào tạo, bước đầu đã đem lại hiệu quả nhất định. Song, phương pháp và các tiêu chí được xây dựng dùng trong đánh giá chưa thực sự có tính hệ thống, đồng bộ và tính chuẩn hoá chưa cao. Một mặt, do yêu cầu và thực tiễn nhiệm vụ giáo dục - đào tạo ngày càng phát triển, mặt khác là đối tượng đào tạo ở Học viện luôn gia tăng, nhiều cấp đào tạo khác nhau, trong khi cáchthức, tiêu chí đánhgiá chất lượng cho từng đốitượng chưa thật sựhoàn thiện. Từđó, đãtác động, ảnh hưởng đến hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục. Một thực tại hiện nay, hoạt động này chỉ được kết hợp với đánhgiá việc hoàn thành nhiệm vụ củacác cơ quan, đơn vị mà chưa được tách biệt, rõ ràng; hay chỉ thiên, nghiêng về công tác thanh, kiểm tra nói chung do các cấp trong Học viện tiến hành. Rõ ràng, việc tự đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnhphảinhư một hoạtđộng thường xuyên, liên tục, có nề nếp và có tíchcực chủđộng, sángtạo đểnó thực sự trở thành yếu tố nội sinh, nguồn động lực mạnh mẽ góp phần thúc đẩy, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện trong giai đoạn mới.
  • 36. tác động từ trình độ, năng lực của cơ quan chức năng và các điều kiện đảm bảo cho công tác tổ chức tự đánh giá chấtlượng giáo dục - đào tạo. Quá trình đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo, trong đó, có tự đánh giá gồm có nhiều thành phần, lực lượng tham gia, song vai trò và trách nhiệm chính là của cơ quan chức năng, chuyên trách là rất quan trọng. Muốn hoạt động tự đánh giá bảo đảm theo đúng tiến trình, quy cách, thủ tục, đạt được hiệu quả thì phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vững vàng, sáng tạo trong công tác, đặc biệt là năng lực biết phát hiện, tham mưu đề xuất, tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch, kiểm tra và đánh giá... Ngược lại, nếu năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách yếu thì sẽ ảnh hưởng nhất định tới công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá. Cùng với đó, các điều kiện bảo đảm cho công tác tổ chức tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện còn bất cập. Để công tác tự đánh giá thực sự có chất lượng thì ngoài việc phát huy vai trò trách nhiệm của các lực lượng, thành phần còn cần phải có cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, tài chính hỗ trợ; các cơ chế chính sách cùng với sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chức năng nghiệp vụ cấp trên. Hiện tại các điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện chưa được quan tâm, đầu tư tương xứng với nhiệm vụ, còn thiếu kinh phí, tài chính cho hoạt động nghiệp vụ. Từ đó, chúng ta thấy rằng, trình độ, năng lực, kinh nghiệm của cơ quan chức năng, của đội ngũ cán bộ chuyên trách và các điều kiện bảo đảm tác động, ảnh hưởng lớn đến hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện. Cần phải kiện toàn lại bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ; tiếp tục đề xuất với lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan cấp trên giúp đỡ, hỗ trợ đúng và đủ các điều kiện làm cho hoạt động tổ chức tự đánh giá ngày càng ổn định, đi vào nền nếp và mang lại hiệu quả thiết thực.
  • 37. sở nghiên cứu những tư tưởng, quan điểm, các công trình khoa học về tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo. Bằng cáchtiếp cận từ tínhchất, đặc điểm giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị tác giả cho rằng tổ chức hoạt độngtựđánhgiá chấtlượng giáo dục -đào tạo ở Học viện Chính trị là quá trình sửdụngtổnghợp nhữngphươngthức tác độngcómục đích,cókếhoạch,có trình tự, nền nếp củachủ thể tổ chức, quản lý trong triển khai, điều khiển thực thi các nhiệm vụ tự đánh giá mang lại hiệu quả tốt nhất, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện Chính trị. Mục đích, nhiệm vụ của tự đánh giá nhằm làm rõ thực trạng, quy mô, chất lượng và hiệu quả các hoạt động giáo dục phù hợp với mục tiêu đào tạo. Đồng thời, xác định và so sánh theo các tiêu chí đã công bố xem đạt đến mức nào; xác định rõ tầm nhìn, các điểm mạnh, điểm yếu và những thời cơ, thách thức đối với công tác đào tạo; và xây dựng kế hoạch, đề xuất biện pháp và kiến nghị với cấp trên hỗ trợ Học viện mở rộng quy mô, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Tự đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo theo các nhóm tiêu chí được xây dựng trên cơ sở ứng dụng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục ở các nhà trường đại học quân sự, trong mỗi nhóm tiêu chí có các tiêu chí và mỗi tiêu chí bao gồm nhiều chỉ số khác nhau. Quá trình tự đánh giá được diễn ra theo một quy trình chặt chẽ khoa học: từ xác định mục đích, phạm vi, thành lập Hội đồng và lập kế hoạch tự đánh giá; thu thập thông tin, minh chứng và xử lý, phân tích chúng, viết báo cáo...Đồng thời, quá trình tự đánh giá luôn chịu tác động ảnh hưởng của các nhân tố khách quan và chủ quan; những nhân tố này có thể tạo thuận lợi hoặc hạn chế đến việc triển khai công tác này. Đây cũng chính là cơ sở lý luận để nghiên cứu đánh giá thực trạng tổ chức hoạtđộngtựđánhgiá chất lượng giáo dục - đào tạo, đồng thời xác định rõ những yêu cầu có tính nguyên tắc và biện pháp tổ chức sao cho phù hợp, hiệu quả hơn, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu “chuẩn hoá, hiện đại hoá” giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay.
  • 38. THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ 2.1. Khái quát một số nét cơ bản về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị Khái quát tổ chức giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị. Sau chiến dịch biên giới 1950, để đáp ứng yêu cầu xây dựng sức mạnh chính trị tinh thần cho các đơn vị quân đội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Tổng Quân ủy ra quyết định thành lập Trường Chính trị trung cấp Quân đội - tiền thân của Học viện Chính trị ngày nay. Trước nhu cầu bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, đường lối của Đảng cho đội ngũ cán bộ quân đội và để phù hợp với thực tiễn cách mạng và tính chất nhiệm vụ quân đội trong các thời kỳ, Nhà trường đã lần lượt được Tổng Quân ủy, hoặc Bộ Quốc phòng ký Quyết định đổi tên, đến nay có tên gọi là Học viện Chính trị. Hiện nay Học viện Chính trị có 10 phòng, ban chức năng; 14 khoa giáo viên; 7 hệ quản lý học viện; 1 viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quân sự và 1 tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự. Từ khi thành lập ngày 25/10/1951 đến nay, Học viện đã tích cực thực hiện có kết quả nhiệm vụ giáo dục - đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội; hàng vạn cán bộ chính trị, giảng viên, chính ủy sau khi tốt nghiệp đã phát huy tốt vai trò trách nhiệm, góp phần xây dựng sức mạnh chính trị tinh thần cho các đơn vị quân đội qua các thời kỳ cách mạng. Hơn 60 năm xây dựng và phát triển, Học viện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học; bổ sung cho quân đội những cán bộ có trình độ cao, có năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, năng lực giảng dạy, góp phần quan trọng trong sự nghiệp giải phóng
  • 39. nhất đất nước, xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc. Học viện đã đào tạo cho quân đội hàng vạn cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên và giảng viên có trình độ cử nhân, hàng nghìn thạc sĩ, hàng trăm tiến sĩ ngành khoa học xã hội và nhân văn. Học viện đã chủ trì và tham gia nhiều đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước, cấp Bộ Quốc phòng; kết quả nghiên cứu đã góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện. Học viện đã liên kết với một số trường đại học trong nước trong tổ chức đào tạo trình độ thạc sĩ một số ngành khoa học xã hội và nhân văn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, Học viện vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm 2000); 2 Huân chương Hồ Chí Minh (năm 1991 và 2001); đặc biệt nhân dịp Kỉ niệm 60 năm ngày truyền thống (10/2011) Học viện vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương sao vàng. Ngoài ra, Học viện còn được Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng thưởng nhiều huân chương, phần thưởng cao quý khác. Một số nét cơ bản về tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị Đánh giá và kiểm định chất lượng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của các tổ chức giáo dục nói chung và của trường đại học nói riêng. Thông qua tự đánh giá chất lượng, cơ sở đào tạo biết được những điểm mạnh, điểm yếu, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp và kế hoạch hành động khắc phục những điểm yếu, phát huy những mặt mạnh để vươn lên, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
  • 40. vấn đề trên, thực hiện Quyết định củaBộ Tổng Tham mưu, Học viện đã sớmthành lập Ban Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo và triển khai công tác tự đánh giá theo đúng chỉ đạo của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục-Bộ Giáo dục và Đào tạo và Cục Nhà trường- Bộ Tổngtham mưu. Côngtác tự đánhgiá củaHọc viện được thực hiện theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học ban hành kèm theo Quyết định số 65/2007/QĐ - Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007. Cụ thể một số hoạt động như sau: Thứ nhất, ngày 28/12/2009, Giám đốc Học viện ký Quyết định số 1545/QĐ - HV1 thành lập Ban Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo. Thứ hai, tham quan, học hỏi kinh nghiệm về Kiểm định chất lượng giáo dục và xây dựng văn hoá chất lượng trong nhà trường của Học viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học sư phạm, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Cục Khảo thí Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thứ ba, cử cán bộ của Ban Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục đào tạo dự các lớp tập huấn về công tác tự đánh giá do Cục Nhà trường - Bộ Tổng Tham mưu và Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức. Thứ tư, thành lập Hội đồng tự đánh giá chất lượng trường (Quyết định số 193/QĐ-HV9 ngày 29 tháng 02 năm 2012 của Giám đốc Học viện); và xây dựng kế hoạch tự đánh giá (Kế hoạch số 234/KH-HV9 ngày 13 tháng 3 năm 2012 của Giám đốc Học viện). Thứ năm, mời các chuyên gia của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục về tập huấn cho Hội đồng tự đánh giá, Ban Thư ký và nhóm
  • 41. Học viện với các nội dung gồm: Quy trình thực hiện công tác tự đánh giá; Hướng dẫn thu thập thông tin, minh chứng; Hướng dẫn viết phiếu đánh giá tiêu chí, đánh giá tiêu chuẩn vào các ngày 21, 22/3/2012. Nhìn chung công tác tự đánh giá chất lượng đào tạo ở Học viện Chính trị luôn bám sát quy định, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng và tình hình, đặc điểm tổ chức đào tạo của Học viện. 2.2. Thực trạng và nguyên nhân của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị 2.2.1. Thực trạng của tổ chức hoạt động tự đánhgiá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị Thông qua việc tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi, phiếu trưng cầu ý kiến và thông qua trao đổi, tọa đàm với cán bộ khảo thí; xử lý kết quả của 100 phiếu hỏi đối với giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo đại học và sau đại học, kết hợp với việc xử lý các số liệu thống kê thu thập từ các văn bản, tài liệu thu thập được từ các cơ quan các đơn vị quản lý trong Học viện, có thể đánh giá thực trạng công tác quản lý và tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị như sau: Về ưu điểm: Các bộ phận, lực lượng của Học viện đã phát huy tốt nhận thức, trách nhiệm của mình trong tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở, quán triệt và triển khai thực hiện các văn bản, quy định, hướng dẫn của Bộ Giáo dục - Đào tạo, Cục Nhà trường, Bộ Tổng Tham mưu, Nghị quyết Đảng uỷ, Chỉ thị của Giám đốc Học viện, các chủ thể quản lý và các thành phần lực lượng tham gia vào quá trình tổ chức hoạt động tự đánh giá đã có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác này đối với chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện. Công tác tổ chức tự đánh giá được xác định là một trong những nội dung quan trọng trong nghị quyết lãnh
  • 42. ủy Học viện Chính trị; cơ quan chức năng, các thành phần tham gia vào Hội đồng đánh giá đều thực hiện tương đối tốt công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá theo chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được phân công. Trong quá trình tổ chức triển khai công tác tổ chức tự đánh giá chủ thể quản lý đã nghiên cứu, quán triệt tốt Chỉ thị 33/CT-TTg ngày 09 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về “Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục”; Quyết định 76/2007/QĐ -BGDĐT ngày 12/12/2007 ban hành quy định về Quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp; Quyết định 29/2008/QĐ - BGDĐT ngày 5/6/2008 ban hành quy định chu kỳ và quy trình kiểm định chất lượng chương trình giáo dục của các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp; Quyết định số 65/2007/QĐ -BGDĐT, ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học; Chỉ thị số 46/2008/CT-BGDĐT, ngày 5-8-2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục; Chỉ thị số 60/CT-TM ngày 25 tháng 12 năm 2006 của Tổng Tham mưu trưởng về việc “Chống tiêu cực bệnh thành tích trong giáo dục tại các cơ sở đào tạo quân đội”; Hướng dẫn số 832/HD-NT của Cục Nhà trường về công tác khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo đốivới các học viện, trường sĩ quan, đại học, cao đẳng trong Quân đội; Nghị quyết chuyên đề của Học viện về lãnh đạo nhiệm vụ giáo dục đào tạo tạo giai đoạn (2011-2015); Chỉ thị 32 /CT - HV9 ngày 14 tháng 02 năm 2012 của Giám đốc Học viện Chính trị về việc tổ chức tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo; Quyết định số 193/QĐ - HV9 ngày 29 tháng 02 năm 2012 của Giám đốc Học viện Chính trị về kiện toàn Hội đồng tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo; Kế hoạch số 190/ KH - HV9 ngày 24 tháng 02 năm 2012 của Giám đốc Học viện Chính trị về tập huấn công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo.