-
Chào mào mà nuôi cà cưỡngChào
mào mà nuôi cà cưỡng
Cùng thể loại:-
Trắng như tiênTrắng như tiên Vô duyên bồ hố
mại Đen như cục than hầm Cháu ngoại ông Hoàng Chăn Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm
xem. Buồi dài dái trễ dễ làm ănBuồi dài, dái trễ dễ làm ăn Bài này có từ ngữ và/hoặc nội
dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Quan sai không bằng lồn khiếnQuan sai không bằng lồn
khiến -
Cứ tưởng đầu đường thương xó chợCứ tưởng đầu đường thương xó chợ Ai ngờ tụi nó cũng chơi
nhau -
Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhịVăn
vô đệ nhất, võ vô đệ nhị -
Nghề võ đánh trả thầy
Nghề võ đánh trả thầy -
Ngọc lành có vítNgọc lành có
vít -
Ngồi thúng khôn bề cất thúngNgồi thúng khôn bề cất thúng Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm
xem. Lồn gì lồn ác quá taiLồn gì lồn ác quá tai Lồn nuốt súng lục Lồn nhai quân hàm -
Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Trăm khôn không bằng lồn
mậpTrăm khôn không bằng lồn mập
Có cùng từ khóa:-
Đồn rằng cà cuống thơm cayĐồn rằng cà
cuống thơm cay Ăn cơm bát sứ, rửa tay chậu đồng -
Hà Chiêu, Hà Chiểu, Hà
ChiềuHà Chiêu, Hà Chiểu, Hà Chiều Vừa đi vừa ngó chập miều đỏ
khu -
Ngó ra ngoài nhánh trâm bầuNgó ra ngoài nhánh trâm
bầu Thấy đôi cưỡng đậu, qua rầu phận qua -
Con cò mắc dò mà chếtCon cò mắc dò mà chết Mẹ con cái
diệc giã gạo làm chay Bồ
câu mở sách xem ngày Cà cuống uống rượu la đà Con cua trong lỗ bò ra chia phần Chào mào mà đánh trống quân Chim
chích ở trần vác mõ đi rao Tôi trình ông xã ông thôn Ông uống chén rượu ông chôn con cò Dị bảnCon cò chết rũ trên cây Cò con mở
lịch xem ngày làm ma Cà cuống uống rượu la đà Chim ri ríu rít bò ra ăn phần Chào mào thì đánh trống quân Chim chích cởi trần vác mõ đi rao Con cò mắc dò mà chết Con
quạ mua nếp làm chay Con cu đánh trống ba ngày Chào mào đội mũ làm thầy đọc văn Xóm làng chạy đến lăng xăng Mua ba thước vải buộc khăn cho cò -
Con cò đi ăn mắc dò mà chết Bìm bịp ở nhà mua nếp làm chay Cu cu gõ mõ ba ngày Chốc mào đội mũ, mang giày đọc văn Le le, vịt nước lăng xăng Rủ nhau đi tới bịt khăn
cho cò
Con cò mắc dò mà chết Con quạ ở nhà mua nếp làm chay Cu cu đánh trống bằng tay Chào mào đội mũ làm thầy đọc văn Chiền chiện vừa khóc vừa lăn Một bầy se sẻ bịt khăn tang cò Cà cưỡng bay caoCà cưỡng bay cao Chào mào bay thấp Cu bay về ấp Quạ bay về trời Nghe tiếng chủ mời Ra ăn thịt chuột Thịt gà đang luộc Thịt
chuột đang hâm Dọn thầy một mâm Thầy ăn kẻo tối Con cá lóc nằm trên bụi sặtCon cá
lóc nằm trên bụi sặt Con cò mắc dò mà chết, Con quạ mua nếp làm chay, Con cu đánh trống ba ngày, Con ngỗng thức dậy dọn bày mâm ra, Cồng
cộc ăn cá nghi nga, Con chim cà cưỡng phải ra ăn mày.
Có nên thì nói là nênCó nên thì nói là nên Chẳng nên sao để đấy quên đây đừng Làm chi cho dạ ngập ngừng Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu
Con cò chết rũ trên câyCon cò chết rũ trên cây Cò con mở lịch xem ngày làm ma Cà cuống uống rượu la đà Chim ri ríu rít chạy ra lấy phần Chào mào thì đánh trống quân Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao
Chào màoCũng gọi là chóp mào hay chốc mào, một loài chim có mào nhọn trên đầu, hai bên má có lông trắng. Chim
chào mào Sáo sậuCòn được gọi là cà cưỡng, một chi chim thuộc họ Sáo, vì vậy mang các đặc tính họ này như: thích sống vùng nông thôn rộng thoáng, chủ yếu ăn sâu bọ và quả, hay làm tổ trong các hốc, lỗ và đẻ các trứng màu xanh lam hay trắng. Họ Sáo, đặc biệt là sáo sậu, có khả năng bắt chước âm thanh từ môi trường xung quanh, kể cả tiếng
còi ô tô hay giọng nói con người. Các loài trong chi này có thân nhỏ, lông thường màu đen hoặc đen xám, tím biếc hoặc xanh biếc, mỏ và chân màu vàng. Ở nước ta, loại chim này được nuôi phổ biến để dạy cho nói tiếng người. Sáo sậu
Làm những chuyện bao đồng, không liên can gì đến mình. Bồ hố mạiTiếng Triều Châu, có nghĩa
là không đẹp, không chịu. (Văn truyền khẩu trên đất Đồng Nai - Nguyễn Văn Hầu) Nặc Ông ChânCòn gọi là Nặc Ông Chăn, Hoàng Chăn, tên vị vua trị vì Chân Lạp từ 1642-1659. Câu này có lẽ xuyên tạc từ thơ Bùi Giáng: Anh cứ tưởng đầu đường thương xó chợ Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhịVăn không có ai đứng nhất, võ không có ai đứng nhì. Người theo nghề văn, võ thường thích độc tôn,
không chịu nhận ai ngang mình. VítCó thương tích; tì tích, chuyện xấu, đều hổ thẹn. (Đại Nam quấc âm tự vị - Huình Tịnh Của) Ngọc lành có vítNgười tốt mấy cũng có tì vết, song không vì thế mà
suy giảm giá trị. Cà cuốngLoài bọ cánh nửa, sống ở nước, phần ngực con đực có hai túi chứa tinh dầu mùi thơm, vị cay, dùng làm gia vị. Con cà cuống Hà ChâuDân địa phương cũng gọi là Hà Chiêu, một thôn thuộc xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đây là
khu vực trũng thấp, thường bị ngập lụt và cô lập trong mùa mưa bão. Chập miềuChim chào mào, cách gọi của người Huế. KhuĐít,
mông (phương ngữ). Trâm bầuMột loại cây bụi hoặc gỗ, mọc hoang ở miền kênh rạch vùng Đông Nam Bộ hoặc được trồng để nuôi kiến cánh đỏ. Lá, rễ và hạt được cho là có nhiều tác dụng chữa bệnh, phổ biến nhất trong dân gian là dùng để tẩy giun đũa. Lá và quả trâm bầu. QuaTừ người lớn dùng để
tự xưng một cách thân mật với người nhỏ, hoặc cách tự xưng có đôi chút tính chất khách quan, nhưng thân tình (Từ điển từ ngữ Nam Bộ - Huỳnh Công Tín). Bẫy dòGọi tắt là dò, một loại bẫy đặt dưới đất đễ bẫy các loại chim, gà rừng. Bẫy dò được làm rất công phu bằng những sợi mây cực dẻo, kết hợp với những sợi thòng lọng làm bằng các loại dây
mảnh và chắc (dây gai, tơ tằm…), cài trên những vùng các loại chim hay qua lại kiếm ăn. Dò có nhiều cỡ: lớn, nhỏ, dài, ngắn… để đánh bắt các loại chim khác nhau. Hình vẽ bẫy dò DiệcMột loài chim giống như cò, thức ăn chủ yếu là côn trùng, cá... Diệc mốc có bộ lông màu nâu. Ngoài ra còn có diệc ba màu, diệc xanh... Chim diệc đang bắt cá
Làm chayLàm lễ cúng để cầu cho linh hồn người chết được siêu thoát, theo quan niệm dân gian. Bồ câuCũng gọi là chim cu, loài chim có cánh dài, bay giỏi, mỏ yếu, mắt tròn đẹp và sáng, được nuôi làm cảnh
và lấy thịt. Nhờ nhớ đường và định hướng rất tốt nên trước đây chúng thường được huấn luyện để đưa thư. Chim bồ câu Hát trống quânHình thức sinh hoạt ca hát giao duyên phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra Bắc. Hát trống quân ở mỗi địa phương có khác nhau về làn điệu, lối hát và thời điểm hát, nhưng đều mang một số điểm chung như: những người tham gia chia thành hai bên "hát xướng" và "hát đáp", lời ca thường mang tính ứng đối, sử dụng trống dẫn nhịp gọi là "trống thùng", giữa những câu đối đáp có
đoạn ngừng gọi là "lưu không". Hát trống quân thường được tổ chức vào rằm tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày hội. Trong những ngày mùa, vào chiều tối, những người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức hát với nhau hoặc với trai gái trong làng. Hát trống quân Xem phóng sự Hát trống quân - Nét dân ca của đồng bằng Bắc Bộ. -
Chim chíchTên chung của một họ chim có lông màu sáng, với phần trên có màu xanh lục hay xám và phần dưới màu trắng, vàng hay xám. Phần đầu của chúng thông thường có màu hạt dẻ. Chim chích bông MõMột loại nhạc khí thường làm bằng gỗ, khi gõ có tiếng vang. Trong đạo Phật, Phật tử gõ mõ khi tụng
kinh. Ở làng quê Việt Nam xưa, khi muốn thông báo gì thì người ta gõ mõ. Người chuyên làm công việc đánh mõ rao việc làng cũng gọi là mõ. Mõ Chim riMột loài chim như chim sẻ, ăn thóc gạo và các loại hạt. Văn học thường dùng các thành ngữ "khóc như ri," "nổi như ri..." Chim ri QuạCòn gọi là ác, loài chim có bộ lông màu đen đặc trưng, ăn tạp. Theo mê tín dân gian, quạ có thể đem lại điềm xui xẻo. Con quạ
NếpLoại lúa cho hạt gạo hạt to và trắng, nấu chín thì trong và dẻo, thường dùng thổi xôi, làm bánh. Xôi nếp
Bìm bịpTên chung để chỉ khoảng 30 loài chim do tiếng kêu của chúng tương tự như "bìm bịp" vào mùa sinh sản. Bìm bịp có lông cánh màu nâu như áo của thầy tu. Một con bìm bịp Le leTên một loài chim gần giống vịt trời, hay kiếm ăn ở vùng đồng ruộng hay bưng biền, gặp nhiều ở vùng Đồng
Tháp Mười. Con le le Sơn caCũng gọi là chiền chiện, chà chiện ở Quảng Nam hoặc cà
lơi ở Huế, một giống chim thuộc họ chim sẻ, có tiếng hót lảnh lót và kiểu bay liệng lạ mắt. Loài này thường làm tổ ở mặt đất hoặc nơi không cao lắm so với mặt đất. Thức ăn chính là côn trùng. Chim sơn ca Cu gáyMột loài chim bồ câu, lông xám, bụng và đầu có phớt hồng, lưng và quanh cổ có chấm đen như hạt cườm. Chim cu gáy
ThầyCha, bố (phương ngữ một số địa phương Bắc và Bắc Trung Bộ). NíchNhét cho đầy, cho chặt. Còn có nghĩa là ăn tham, ăn một cách thô tục. Cá lócCòn có các tên khác là cá tràu, cá quả tùy theo vùng miền. Đây là một loại cá nước ngọt, sống ở đồng và thường được nuôi ở ao để lấy giống hoặc lấy thịt. Thịt cá lóc được chế biến thành nhiều món ăn ngon. Ở miền Trung, cá tràu và được coi là biểu tượng của sự lanh lợi, khỏe mạnh, vì thế một số nơi có tục ăn cá tràu đầu năm. Cá lóc SặtMột loại cây, thuộc họ cây trúc rừng, thân nhỏ, rất thẳng và chắc, sống nơi có khí hậu ẩm, mát mẻ. Cây phát triển chậm nhưng
tươi tốt quanh năm. Măng sặt chỉ to cỡ chuôi liềm, trắng nõn, mềm và ngọt, rất dễ chế biến. Măng sặt Cồng
cộcTên gọi miền Nam của chim cốc đế, một loại chim làm tổ trong các rừng ngập mặn đồng bằng sông Cửu Long. Chim có đầu, mào, cổ toàn bộ mặt lưng và đuôi màu đen, cánh xanh lục hay tím đỏ. Thức ăn chủ yếu là cá. Chim cồng cộc
Nghi ngaThả sức, tha hồ. Có bản chép: giở sách coi ngày. |