Chỉ huy Chính của ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 là ai

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 là thắng lợi lớn nhất của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tròn 65 năm qua (7/5/1954 - 7/5/2019), lịch sử đã khẳng định một bất biến: Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn tạo nên bước ngoặt quan trọng trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, đưa đến việc ký Hiệp định Genève, chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Một quyết định mang tính sáng tạo và kịp thời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh được các nhà nghiên cứu ghi nhận như một trong những nguyên nhân thắng lợi là sự thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”.

Sau này, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói rằng đó là “một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp bàn kế hoạch tác chiến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) 

Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954) hình thành dần trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 mà cả 2 bên tham chiến đều chấp nhận và ra sức chuẩn bị, quyết tâm giành thắng lợi.

Trong tình hình đó, sự bí mật, bất ngờ của điểm quyết chiến chiến không còn nữa. Thắng hay bại của trận đánh chủ yếu tùy thuộc vào binh lực và cách sử dụng binh lực mỗi bên, tinh thần chiến đấu của quân đội, tư tưởng và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch, chiến thuật, trong đó phương châm tác chiến giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Trong Báo cáo chính trị tại Hội nghị TW khóa II (1/1953) do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày với tư tưởng chỉ đạo là: “Ta không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.

Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều nên nói chung là chỉ có thắng chứ không được bại là hết vốn”.

Đến tháng 12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã căn dặn: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Phải chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh”.

Ngày 5/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Trưởng đoàn cố vấn Trung Quốc là Vi Quốc Thanh lên đường ra mặt trận, nghiên cứu tình hình và phương án tác chiến.

Tối hôm đó, Đại tướng lại gặp Vi Quốc Thanh và ông ta tán đồng phương án đánh sớm, đánh nhanh do cán bộ tham mưu Việt Nam và Trung Quốc đề xuất.

Video: Những thước phim chân thực về trận Điện Biên Phủ trên không

Với tư tưởng chỉ đạo của Trung ương và kinh nghiệm dày dạn, nhạy bén của một Tổng Tư lệnh, Đại tướng thấy rõ “phương án đánh nhanh thắng nhanh là quá mạo hiểm” và tự xác định trách nhiệm phải thay đổi cách đánh, thay đổi phương châm chỉ đạo tác chiến của chiến dịch.

Khó khăn và lực cản lớn nhất của Đại tướng là toàn thể Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch và cố vấn Trung Quốc lại nhất trí với chủ trương “đánh nhanh thắng nhanh”. Đây là trường hợp chân lý không thuộc về số đông và tình trạng cô đơn của một trí tuệ và bản lĩnh hơn người.

Trong chiến tranh, đặc biệt là trong những trận đánh lớn thì Tổng Tư lệnh có thể ra lệnh và đương nhiên, toàn quân phải tuyệt đối phục tùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi giao nhiệm vụ “phải chắc thắng mới đánh” cũng đề ra yêu cầu phải giữ gìn sự thống nhất trong chỉ huy: “Tướng quân tại ngoại, giao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong Đảng ủy, thống nhất với cố vấn. Cứ quyết định rồi báo sau”.

Phải làm sao chuyển hóa được nhận thức đó, phải có thời gian và thực tế để chứng minh phương án “đánh nhanh thắng nhanh” là mạo hiểm, không chắc thắng và thậm chí có thể dẫn đến tổn thất lớn và thất bại để từ đó thay đổi cách đánh.

Trước tiên, Đại tướng phải tạm thời chấp nhận phương án đã thống nhất trong Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch và cố vấn Trung Quốc. Ngày 14/1/1954, Đại tướng triệu tập hội nghị cán bộ và phổ biến mệnh lệnh chiến đấu, đôn đốc các đơn vị triển khai việc chuẩn bị, nhất là việc kéo pháo vào trận địa.

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thắng lợi của bộ đội Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 đó là việc sử dụng xe đạp thồ vượt qua những đường đèo hiểm trở, nơi xe bọc thép không thể đi qua, để vận chuyển vũ khí, lương thực và nhu yếu phẩm tiếp tế cho các chiến sĩ cách mạng. (Ảnh: Jean-Claude Labbe/Gamma/Getty Images)

Trải qua nhiều ngày khảo sát trận địa, theo dõi chặt chẽ tình hình địch với rất nhiều xe tăng, pháo, các công sự kiên cố có hàng rào dây thép gai, bãi mìn dày đặc thì công việc kéo pháo bằng tay của ta gặp nhiều khó khăn vì địa hình nhiều dốc cao, vực thẳm, lại bị máy bay và pháo địch luôn bắn phá, cản đường.

Sau 11 đêm suy tính, cân nhắc (từ ngày 14/1), nhất là đêm 25/1, hầu như không ngủ được, Đại tướng đã đi đến một quyết định táo bạo là phải kiên quyết thay đổi cách đánh, phải chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”.

Vấn đề là làm sao để thực hiện được quyết đoán đó trên cơ sở tranh thủ được sự đồng tình của cố vấn Trung Quốc và thuyết phục được Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch.

Qua quan sát thực tế, Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh đã nhận ra nhiều khó khăn cho phương án chuẩn bị đánh nhanh. Sáng 26/1, Vi Quốc Thanh đã đồng tình và chấp nhận chủ trương mới của Đại tướng.

Ngay sau đó, Đại tướng đã triệu tập Đảng ủy mặt trận để thảo luận về chủ trương thay đổi phương án tác chiến. Mỗi người mỗi ý nhưng đều muốn quyết tâm đánh nhanh vì toàn quân đã ở tư thế sẵn sàng, không muốn lui quân, kéo pháo ra và phải chuẩn bị lại từ đầu theo phương châm mới.

Đại tướng đã phân tích và nhấn mạnh đến yếu tố: Yêu cầu cao nhất là đánh phải chắc thắng, vậy nếu đánh theo phương châm cũ có chắc thắng trăm phần trăm không? Từ câu hỏi đó, mọi người mới tỉnh táo để nhận ra nhiều khó khăn chưa thể khắc phục được và đi đến sự nhất trí với phương châm mới, thay đổi cách đánh từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”.

Đến trưa 26/1/1954, sau khi tạo nên sự nhất trí với cố vấn Trung Quốc, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đại tướng ra lệnh hoãn cuộc tiến công, các đơn vị lui về điểm tập kết và kéo pháo ra.

Hệ quả của sự thay đổi phương châm, cách đánh táo bạo, kịp thời và hiệu quả đó là sau 55 ngày đêm chiến đấu với 3 đợt tiến công với nhiều hy sinh, mất mát, chiều 7/5/1954, toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kiên cố và mạnh nhất Đông Dương với 49 cứ điểm, 3 phân khu đã bị xóa sổ.

Tướng De Castries bị bắt tại Điện Biên Phủ. 

Thắng lợi lịch sử được tạo bởi nhiều nguyên nhân cơ bản từ đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập tự chủ, trong đó có sự đóng góp trực tiếp gắn liền với sự quyết đoán và kịp thời thay đổi cách đánh của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Trong chỉ đạo chiến dịch, sự thay đổi phương châm chỉ đạo tác chiến là một nhân tố quyết định. Bằng khả năng quan sát tinh tế và tư duy quân sự nhạy bén, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đã thấy ngay tính mạo hiểm, hậu quả nguy hại của lối đánh nhanh ngay từ đầu và kiên trì chủ trương phải đánh chắc thắng.

Điều quan trọng nhất là bằng tất cả tài năng của mình, ông đã làm chuyển biến từ chủ trương “đánh nhanh” được sự nhất trí của Đảng ủy mặt trận và các cố vấn Trung Quốc sang chủ trương đúng đắn của ông.

Đây không phải là sự thay đổi áp đặt từ trên xuống bằng mệnh lệnh, cũng không phải là sự tranh cãi trên lý lẽ mà là sự kiên nhẫn chờ đợi để hội đủ các căn cứ thực tế đủ sức thuyết phục mọi người, tạo nên sự thay đổi về nhận thức, một sự nhất trí tự nguyện trên một chủ trương mới. Đó là một quyết định táo bạo, kịp thời thể hiện tài thao lược kiệt xuất, bản lĩnh và năng lực tổ chức tuyệt vời của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã lùi xa tròn 65 năm (1954-2019) và Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng đã giã từ chúng ta gần 6 năm.

Nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử là nhớ đến vai trò và tài năng quân sự của Võ Nguyên Giáp, vị tướng của những quyết định lịch sử. Quyết định lịch sử trong giờ phút lịch sử của Đại tướng đã làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Về sau, trong hồi ức “Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thổ lộ: “Ngày hôm đó (tức ngày 26/1/1954), tôi đã thực hiện một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi”.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại

(ĐCSVN) - Cách đây 67 năm, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ - đỉnh cao của Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đập tan cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào - Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Theo đánh giá của tướng viễn chinh Pháp H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ, Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Điện Biên Phủ là một cánh đồng rộng lớn nhất, đông dân và giàu có nhất vùng Tây Bắc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam.

Thấy rõ vị trí quan trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp để nghe Tổng Quân ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, đồng thời quyết định mở Chiến dịch Điện Biên phủ với quyết tâm tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm này. Ảnh: TTXVN

Đến đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 đơn vị pháo binh, 3 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đơn vị xe vận tải với 200 xe, cùng một đơn vị không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu.

Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là “một tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”. Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta.

Nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến “Đánh nhanh, thắng nhanh”. Quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn bạc, phân tích rất kỹ để tìm ra phương án thích hợp huy động sức mạnh của toàn quốc chi viện cho Chiến dịch đảm bảo chắc thắng. Người căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Đảng ủy, kiêm Tư lệnh Mặt trận: “Trận này chắc thắng thì đánh, không chắc thắng không đánh”.

Thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, cả nước dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng ngàn km đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.

Với tầm nhìn chiến lược, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận thấy phương án "Đánh nhanh, thắng nhanh" là quá mạo hiểm và tự xác định trách nhiệm phải thay đổi cách đánh, thay đổi phương châm tác chiến của chiến dịch. Sau nhiều ngày đêm suy tính, cân nhắc mọi mặt, Đại tướng đi đến một quyết đoán táo bạo là phải kiên quyết thay đổi ngay cách đánh, phải chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.

Thực hiện phương châm và kế hoạch tác chiến mới đề ra, sau khi có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, hơn 17 giờ ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch.

Từ ngày 30/3 đến 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các cứ điểm. Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Từ ngày 1/5/1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1, trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt. Quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không mòn”, 17 giờ 30 ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch,. Tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đập tan những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945 - 1954); đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia; đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

Thắng lợi đó đã đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một mốc son chói lọi, trở thành biểu tượng của sự kế thừa, phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn, là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết chiến, quyết thắng và sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước Đông Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.

67 năm sau chiến thắng vang dội có ý nghĩa thời đại đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức; nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ, tinh thần bất diệt của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh nội lực cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững./.

H.Lê

Video liên quan

Chủ đề