Ab imo pectore nghĩa là gì

👉🏼 Shot này hai bạn chỉ là tình trong như đã mặt ngoài còn e nhé. Đúng hơn là mỗi Soojin thôi =)))————•————

"Em sẽ trở về Đài Loan sao ?"

"Sẽ trở về Đài Loan thật sao ?"

"Mọi người bảo em phải chịu trách nhiệm với chị kìa."

"Khi nào về Đài Loan, hãy dẫn chị đi cùng với nhé ?"

"Em sẽ ở lại đây cho đến khi chị kết hôn mà."

Nửa sau buổi V Live, Seo Soojin cứ như người mất hồn nghĩ đi đâu, mặt mũi cũng sượng đi hẳn. Thật ra trong lòng Seo Soojin đang cảm thấy có gì đó thật khó chịu. Thật buồn. Ngồi nghe Yeh Shuhua líu lo bên cạnh, Seo Soojin thầm nghĩ sau này nếu không thể gặp được em ấy nữa, cuộc sống của cô sẽ thế nào. Một ngày nào đó không xa, Yeh Shuhua cũng phải trở về nơi em ấy thuộc về, một nơi không còn là idol Shuhua nữa, một nơi Seo Soojin chỉ có thể tới, không thể ở lại. Lòng Seo Soojin nặng trĩu đi. ....- Unnie, unnie ? - Huh ? Seo Soojin giật mình, nhận ra xe của quản lí đã đến từ lúc nào. Kết thúc V Live, dọn dẹp đồ đạc và họp với ban quản lí xong xuôi cũng đã hơn 11h khuya. Cả hai cùng đứng đợi xe ở dưới tầng hầm, Miyeon đã về từ trước và có lẽ cũng đã ăn rồi. Yeh Shuhua đang lướt điện thoại tìm xem có thứ gì ngon để bỏ bụng với thời tiết như thế này, cũng không để ý một Seo Soojin đang đứng thất thần bên cạnh. - Về nhà thôi, em đói quá đi mất. Oppa, một lát oppa ghé vào quán X để chúng em mua tí đồ ăn nhé ?Yeh Shuhua vui vẻ kéo cô vào trong xe, ngoài trời lạnh buốt như vậy, vào trong xe ấm áp thật là thích. Lúc này em mới nhận ra, Seo Soojin có gì đó. Seo Soojin tựa đầu vào ghế, mắt nhắm lại vờ ngủ đề không phải nói chuyện với Shuhua. Cô sợ mình không kìm được lại hỏi em, và sự thật phũ phàng sẽ khiến Seo Soojin một lần nữa đau lòng. - Shuhua, Tết Nguyên đán em có dự định về nhà không ? Anh nghe tin hành lang lúc đó các em cũng hết lịch trình rồi, được nghỉ Tết và sau đó sẽ luyện tập cho concert thôi. Mắt Yeh Shuhua sáng rỡ. Năm ngoái em không về được, Tết Nguyên đán cũng chỉ có thể ngồi trong phòng gọi về cho ba mẹ, mặc dù tỏ ra không có gì, nhưng Yeh Shuhua thật sự rất buồn. Em muốn trở về nhà lắm. Vậy nên nghe tin này xong, Yeh Shuhua mừng lắm. Những áp lực mấy ngày nay thành công bào mòn sức trẻ của em, tuy Yeh Shuhua không nói ra, song trong lòng cũng có 7 phần chán nản, muốn buông bỏ bớt. Những lúc này chẳng phải về nhà sẽ rất tốt sao ? - Tất nhiên rồi ! Em sẽ về nhà ! Bỗng một lực đạo không hề nhẹ lại còn lạnh toát siết lấy tay của Yeh Shuhua, em giật mình, ngạc nhiên nhìn lên lại va chạm với ánh mắt lạnh băng của Seo Soojin. Giọng Seo Soojin trầm lại, nghe như run lên. - Không phải em đã hứa năm nay sẽ về nhà của chị sao ? - ....Seo Soojin hỏi như vậy, không khí trong xe liền trở nên kì cục. Yeh Shuhua khó hiểu, anh quản lí lại càng khó hiểu hơn. Chẳng phải trước giờ Seo Soojin là người luôn suy nghĩ thấu đáo hay sao, bây giờ lại thốt nên câu hỏi lạc quẻ như vậy ? Rõ ràng Soojin nên mừng cho Shuhua vì cuối cùng dịp lễ này em ấy cũng không còn cô đơn nữa. Nhưng không ai lên tiếng hỏi lại. Quãng đường còn lại trở về nhà cũng ngập trong bầu không khí căng thẳng, Yeh Shuhua vốn dĩ có thể bật lại, nhưng em cảm thấy có gì đó khác lạ từ Seo Soojin. Chị ấy có vẻ hờn dỗi, tổn thương lắm, nhưng tay vẫn nhất quyết nắm chặt lấy tay em. Soojin ah........- Có nghĩa là Soojin không muốn em về Đài Loan ?- Nae....Kim Minnie khó hiểu nhìn Yeh Shuhua. Không phải trước giờ Seo Soojin luôn muốn Yeh Shuhua được gần gia đình hơn sao ? Đúng ra là chẳng muốn Yeh Shuhua phải cô đơn. Những ngày lễ hay kì nghỉ dài các thành viên đều đi đi về về nhà bố mẹ, Minnie cũng hay tụ họp với chị em và Yuqi luôn có lịch trình ở Trung chỉ có Yeh Shuhua ít bạn bè nằm lì suốt trong Kí túc xá, vậy nên Soojin rất lo Shuhua sẽ buồn. Kim Minnie có sắp xếp dữ liệu Yeh Shuhua đưa cho nãy giờ, Seo Soojin như vậy kể từ sau kho V Live kết thúc. V Live...- Đúng rồi, V Live !Kim Minnie reo lên, Yeh Shuhua mờ mịt nhìn cô. - Có phải fan đã hỏi em sau này sẽ về Đài Loan có đúng không ?- Dạ đúng.- Còn có cả, sẽ trở về sau khi Soojin kết hôn ?- Nae.... Nhưng mấy cái đó có liên quan gì đến việc Soojin giận em ? Em nghĩ là chị ấy cho rằng em quên mất lời hứa về nhà bố mẹ chị ấy thôi. - Babo. Kim Minnie không nhịn được kí đầu Yeh Shuhua một cái. Việc đơn giản vậy ngốc cũng nhìn ra được, chỉ có Yeh Shuhua vô tâm mới không nhìn ra thôi. - Seo Soojin căn bản em ấy lúc đó đang nhạy cảm với việc em trở về Đài Loan. - Cho nên ?- Cho nên đã tức giận khi ngay lúc đó em tỏ ra vui vẻ khi được trở về. - Nhưng mà em trở về nhà của em mà ?Khó hiểu. Kim Minnie: 😀- Có nghĩa là Seo Soojin không muốn em đi khỏi em ấy, không muốn em sau này sẽ trở về luôn đó đồ ngốc !!!! Nhìn em vui vẻ như vậy, em ấy nghĩ sau này em ra đi nhất định không có quyến luyến gì trong lòng. Seo Soojin không phải không muốn em về Đài Loan, Seo Soojin chính là không muốn em về rồi sẽ không bao giờ quay lại, hiểu chứ ? Và trọng điểm chính là, Seo Soojin thíc- ....- Thật sao ? Nhưng sau này cũng sẽ có lúc chị ấy không cần tới em nữa mà...Kim Minnie bất ngờ, nhìn Yeh Shuhua cố gượng cười. - Em đã nói rồi, chị ấy, hay các chị cũng phải kết hôn, có con, có gia đình. Em cũng vậy. Gả các chị trước, rồi em sẽ an tâm rời đi. - ....Kim Minnie đứng hình vì suy nghĩ của đứa trẻ ngồi bên cạnh mình. Chẳng lẽ Yeh Shuhua không nhìn ra, rốt cuộc Seo Soojin có bao nhiêu yêu thích dành cho em ấy sao ?- Yeh Shuhua, chị từng nghĩ em là một nhóc con nhìn bề ngoài vô tư nhưng bên trong rất tinh tế đó. Nhưng mà em tinh tế những chuyện khác mà chuyện của em em lại mù mờ thế hả ? - .... Chị mắng em sao ?Mếu. - .... - Hu....- ....Yah Yeh Shuhua ! Thay vì chơi với cún và ăn vặt đến suýt sâu răng thì em hãy nghĩ xem rốt cuộc tại sao Seo Soojin nhà em lại thái độ như vậy với em đi nhé ! Thật tình ! .....Thật ra, Yeh Shuhua biết tất cả. Em giả vờ đó thôi, nhưng em biết hết những lúc Soojin âm thầm quan tâm, chăm sóc em. Seo Soojin ngoài mặt lạnh lùng vậy, nhưng luôn là người đứng lại chờ em về cùng sau khi kết thúc lịch trình, không trực tiếp nói lời động viên nhưng luôn ôm lấy dỗ dành em sau ánh đèn sân khấu. Luôn cằn nhằn em bừa bộn quá sau đó lại không than phiền giúp em dọn dẹp. Luôn đỡ lời cho em mỗi khi có ai đó tỏ ra trách mắng hay khó chịu với em. Hứa với rằng sẽ dành cả đời để nấu ăn cho em. Vì muốn em vui vẻ mà sẽ chấp nhận mọi lời đề nghị. Seo Soojin vừa là nóc nhà vừa là trụ cột, Yeh Shuhua ở bên trong sẽ chẳng ngại phong ba bão táp nữa. Vậy Seo Soojin đây xem Yeh Shuhua là gì mà mới có có thể yêu thương, chiều chuộng, chịu đựng đến như vậy ? Yeh Shuhua rõ điều đó. - Vậy cho nên chị xem em là em út trong nhà hết mực yêu thương. Yên tâm đi Soojin à, đứa em này sẽ luôn ơi bên cạnh chị mà. Thương thương ~Seo Soojin đóng băng, chết trân nhìn Yeh Shuhua đang vồ lấy mình. Người như vừa bước một chân lên thiên đàng đã bị quỷ Satan này kéo xuống địa ngục nhanh như chớp. Yeh Shuhua nói y như rằng sắp tỏ tình đến nơi vậy, y như rằng em ấy đã nhìn thấu được tâm ý của cô và dịu dàng chấp nhận. Nhưng không. Seo Soojin hơi bị đề cao Yeh Shuhua rồi. - Ra ngoài. - Ớ...- Đi ra ngoài !- Chị mà đuổi em em sẽ xách gói về Đài Loan luôn cho coi !!!Lại chơi ngu.- EM THỬ XEM !??????Chiếc sisterzone này có vẻ bự a ~-

Xin lỗi mọi người tôi bấm nhầm nên mới viết có một nửa đã bị đăng lên 😭


Tùy Chỉnh

Màu nền TrắngXanh nhạtXám nhạtVàng nhạtMàu sepiaVàng đậmVàng ốMàu đen

Font chữ ArialOpen SansTime News RomanSans SerifPalatino Linotype

Size chữ 141516182022242628303234363840

Chiều cao dòng 100%120%140%160%180%200%

Đối số quảng cáo vô lý.

"Bằng chứng là vô lý."

Contumeliam,.

"Một người trung thực không chịu một sự xúc phạm, và một người can đảm không gây ra nó."

Lặp lại trường cũ studiorum.

"Sự lặp lại là mẹ của việc học."

Chết tiệt, quod non intelegunt.

"Họ lên án vì họ không hiểu."

"Từ trái tim."

Hỡi sancta simplicitas.

"Ôi, sự đơn giản thánh thiện."

Audire lờti quom imperant soleo non auscultare.

"Tôi sẵn sàng lắng nghe sự ngu ngốc, nhưng tôi sẽ không tuân theo."

Ad impossibilia lex non cogit.

"Luật pháp không yêu cầu điều không thể."

Latrante una latrat st đã gặp thay đổi canis.

"Khi một con chó sủa, con khác ngay lập tức sủa."

Amicus plato, sed magis amica veritas.

"Plato là bạn của tôi nhưng sự thật còn đáng yêu hơn."


Natura non nisi parendo vincitur.

"Thiên nhiên bị chinh phục chỉ bằng cách tuân theo nó."

Omne ignotum pro phóng đại.

"Mọi thứ chưa biết đều có vẻ hoành tráng."

Benefacta nam locata malefacta Arbitror.

"Lợi ích, đưa ra không xứng đáng, tôi coi là hành động tàn bạo."

Tình yêu, ut lacrima, ab oculo oritur, bằng cor cadit.

"Tình yêu, giống như một giọt nước mắt, được sinh ra từ đôi mắt, rơi trên trái tim."

"Với ý định tốt."

Cujusvis hominis est errare; nullius, nisi insipientis trong errore perseverare.

"Sai lầm của mỗi người là chuyện thường tình, nhưng chỉ có kẻ ngốc mới cố chấp mắc sai lầm."

De gustibus non disputandum est.

"Hương vị không thể được thảo luận."

Conditio sine qua non.

"Điều kiện bắt buộc."

Consuetudo est аlterа natura.

"Thói quen là bản chất thứ hai."

Carum quod rarum.

“Cái gì hiếm thì cái gì cũng đắt”.

Accipere quid ut justitiam facias, non est tam accipere quam extorquere.

"Chấp nhận phần thưởng cho việc quản lý công lý không được chấp nhận nhiều như tống tiền."

Aut vincere, aut mori.

"Hoặc là thắng hoặc là chết."

Aequitas enim lucet per se.

"Công lý tự nó tỏa sáng."

Citius, altius, fortius.

"Nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn."

Lá omnes, cum valemus, directa consilia aegrotis damus.

“Tất cả chúng ta khi khỏe mạnh đều dễ dàng đưa ra lời khuyên cho người bệnh”.

Beatitudo nоn est Virtutis praemium, sed ipsa Virtus.

"Hạnh phúc không phải là phần thưởng cho lòng dũng cảm, mà chính là sự dũng cảm."

Audi, multa, loquere pauca.

"Nghe nhiều, nói nhiều một chút."

Chia et impera.

"Chia ra và cai trị."

Veterrimus homini tối ưu amicus est.

"Người bạn lớn tuổi nhất là tốt nhất."

Homo homini lupus est.

"Con người là một con sói đối với con người."

De mortuis aut Bene, aut nihil.

"Về người chết, hoặc tốt, hoặc không có gì."

Bonis quod Bene fit haud perit.

"Những gì được làm cho người tốt không bao giờ được thực hiện một cách vô ích."

Vestis virum reddit.

"Quần áo làm nên một con người, quần áo vẽ nên một con người."

Deus ipse se fecit.

"Chúa tạo ra chính mình."

Cứng rắn mạnh mẽ.

“Sống là phải nghĩ”.

"Chúc may mắn!"

Fac fideli sis Fidelis.

"Hãy trung thành với một người trung thành với bạn."

Antiquus tình yêu ung thư est.

"Tình cũ không quên."

Vox p? Puli vox D? I.

"Tiếng nói của con người là tiếng nói của Thiên Chúa."

Bí danh người tiêu dùng insertviendo.

“Phục vụ người khác, tôi phung phí bản thân mình; chiếu vào người khác, tôi đốt cháy chính mình ”.

Calamitas ...

"Tai họa là đá tảng của lòng dũng cảm."

Màng cứng Lex SED lex.

"Luật là mạnh, nhưng đó là luật."

Vir excelso animo.

"Một người có tâm hồn cao thượng."

Aditum nocendi perfido praestat fides.

"Sự tin tưởng thể hiện đối với kẻ bội bạc cho phép anh ta làm hại."

Corruptio tối ưu hóa pessima.

"Mùa thu tồi tệ nhất là mùa thu của những gì thuần khiết nhất."

Màng cứng Lex SED lex.

"Luật pháp là khắc nghiệt, nhưng nó là luật pháp."

Trích dẫn bằng tiếng Latinh có bản dịch

"Khi có sự đồng ý, những việc làm nhỏ sẽ lớn lên; khi bằng lòng, ngay cả những việc lớn cũng rơi vào tình trạng hư hỏng."

Bene quy latuit, Bene vixit.

"Người đã sống một cách không bình thường đã sống tốt."

Facta sunt potentiora verbis.

"Hành động mạnh hơn lời nói."

Veni, vidi, Lower.

"Tôi đến, tôi đã thấy, tôi đã thắng."

Consensu omnium.

"Theo thỏa thuận chung."

Vir bonus tiro semper.

"Người tử tế luôn là người giản dị."

Scire leges non hoc est verba earum tenere, sed vim ac potestatem.

"Biết luật không phải là nhớ lời nói, mà là hiểu ý nghĩa của chúng."

Melius est nomen bonum quam magnae divitiae.

"Một danh lợi tốt hơn là sự giàu có lớn."

Castigo te non quod odio habeam, sed quod amem.

"Tôi trừng phạt em không phải vì tôi ghét, mà vì tôi yêu em."

Amor non est medicabilis herbis.

"Không có thuốc chữa cho tình yêu."

Vox phát ra volat; litera scripta manet.

"Những gì đã nói sẽ biến mất, nhưng những gì được viết vẫn còn."

"Memento Mori."

Deffuncti invitro ne afficiantur.

"Hành vi phạm tội của người chết không thuộc thẩm quyền xét xử."

Absentem laedit, qui kiêm ebrio litigat.

"Ai tranh luận với một người say rượu là chiến tranh với một người vắng mặt."

Vis dat, qui cito dat

“Ai cho nhanh thì cho gấp đôi”.

Quod non habet Principium, non habet finem.

"Cái gì không có bắt đầu cũng không có kết thúc."

Errare humanum est.

"Con người có xu hướng phạm sai lầm."

Hồi ức về ký hiệu rerum trong tiền đình mente.

"Trí nhớ là dấu vết của những thứ cố định trong suy nghĩ."

Facilis downsus averni.

"Sự dễ dàng xuống thế giới ngầm."

Poa nascitur không phù hợp.

"Nhà thơ được sinh ra, không được tạo ra."

Audi, vide, sile.

"Nghe, nhìn, yên lặng."

Sivis speedm para bellum.

"Nếu bạn muốn hòa bình, chuẩn bị cho chiến tranh."

Alitur vitium vivitque tegendo.

"Bằng vào che giấu, phân phó được nuôi dưỡng và duy trì."

Ex parvis saepe magnarum rerum momenta mặt dây chuyền.

"Kết quả của những việc lớn thường phụ thuộc vào những việc nhỏ."

Haurit aquam cribro, qui discere vult sine libro.

“Ai muốn học mà không có sách thì lấy nước bằng sàng”.

Concordia parvae res crescunt, discordia maximae dilabuntur.

"Với sự đồng ý, việc nhỏ tăng trưởng, với sự không đồng ý, việc lớn bị tiêu diệt."

Descensus avernonticis est.

Những cụm từ tiếng Latinh vẫn thu hút giới trẻ và các cô gái. Có một cái gì đó quyến rũ trong những từ và chữ cái này, một ý nghĩa bí ẩn nào đó. Mỗi câu trích dẫn có một câu chuyện riêng, tác giả của nó, thời gian riêng của nó. Chỉ cần nghĩ về những từ: "Feci quod potui, faciant meliora potentes"; cụm từ này có nghĩa là - "Tôi đã làm mọi thứ tôi có thể, ai có thể, hãy để anh ta làm tốt hơn" và ám chỉ thời La Mã cổ đại, khi các quan chấp chính chọn người kế vị. Hoặc: "Aliis insertviendo secureor", có nghĩa là "phục vụ người khác mà tôi phung phí bản thân mình"; ý nghĩa của dòng chữ này là sự hy sinh bản thân, họ đã viết nó dưới một ngọn nến. Cô cũng gặp trong nhiều ấn phẩm cũ và bộ sưu tập các biểu tượng khác nhau.

Tiếng Latinh là ngôn ngữ cao quý nhất còn tồn tại. Có lẽ vì anh ấy đã chết? Để thành thạo tiếng Latinh không phải là một kỹ năng thực dụng, nó thuộc phạm trù xa xỉ. Bạn sẽ không nói nó, nhưng để tỏa sáng trong xã hội ... Không có ngôn ngữ nào giúp tạo ấn tượng!

1. Scio me nihil scire
[scio me nihil scire]

“Tôi biết rằng tôi không biết gì cả,” theo Plato, Socrates đã nói về bản thân theo cách này. Và anh ấy giải thích suy nghĩ này: mọi người thường nghĩ rằng họ biết điều gì đó, nhưng hóa ra họ không biết gì cả. Vì vậy, nó chỉ ra rằng, biết về sự thiếu hiểu biết của tôi, tôi biết nhiều hơn tất cả những người khác. Một cụm từ dành cho những người thích để sương mù và những người phản chiếu.

2. Cogito ergo sum
[kogito, ergo sum]

“Tôi nghĩ, do đó tôi là như vậy” là một tuyên bố triết học của Rene Descartes, một yếu tố cơ bản của chủ nghĩa duy lý phương Tây trong thời hiện đại.

Cogito ergo sum không phải là công thức duy nhất của ý tưởng của Descartes. Chính xác hơn, cụm từ nghe giống như “Dubito ergo cogito, cogito ergo sum” - “Tôi nghi ngờ, sau đó tôi nghĩ; Tôi nghĩ, thế thì tôi tồn tại. " Theo Descartes, nghi ngờ là một trong những phương thức tư duy. Do đó, cụm từ có thể được dịch là "Tôi nghi ngờ, sau đó tôi tồn tại."

3. Omnia Mecum port®
[omnia Mea mekum porto]

"Tôi mang theo mọi thứ bên mình." Các nhà sử học La Mã nói rằng trong những ngày người Ba Tư chinh phục thành phố Priene của Hy Lạp, nhà hiền triết Bias bình tĩnh đi sau một đám đông đào tẩu, hầu như không kéo theo tài sản nặng nề trên người. Khi được hỏi những thứ của mình ở đâu, anh ấy cười toe toét và nói: "Mọi thứ mà tôi có, tôi luôn mang theo bên mình." Anh ấy nói tiếng Hy Lạp, nhưng những từ này đã được chúng tôi dịch sang tiếng Latinh.

Các nhà sử học nói thêm rằng hóa ra ông là một nhà hiền triết thực sự; Trên đường đi, tất cả những người tị nạn bị mất hàng hóa, và ngay sau đó Bias đã cho họ ăn những món quà mà anh ta nhận được, thực hiện các cuộc trò chuyện hướng dẫn với cư dân của họ trong các thành phố và làng mạc.

Điều này có nghĩa là sự giàu có bên trong của một người, kiến ​​thức và trí óc của người đó quan trọng và có giá trị hơn bất kỳ tài sản nào.

4. Dum spiro, Spero
[doom spiro, spiro]

Nhân tiện, cụm từ này cũng là khẩu hiệu của lính đặc nhiệm dưới nước - những người bơi chiến đấu của Hải quân Nga.

5. Errare humanum est
[erráre humanum est]

“Bản chất con người mắc sai lầm” là câu cách ngôn của Seneca the Elder. Thực ra, đây chỉ là một phần của câu cách ngôn, về tổng thể nó nghe như thế này: "Errare humanum est, stultum est in errore perseverare" - "Bản chất con người luôn mắc sai lầm, nhưng thật ngu ngốc khi cố chấp mắc sai lầm. . "

6. Tạm thời! Hỡi những người khác!
[khoảng tạm thời, khoảng hơn nữa]

“Hỡi lần! Về đạo đức! " - biểu hiện nổi tiếng nhất của Cicero từ "Bài phát biểu đầu tiên chống lại Catiline", được coi là đỉnh cao của lối diễn xướng La Mã. Tiết lộ chi tiết về âm mưu tại một cuộc họp của Thượng viện, Cicero với cụm từ này thể hiện sự phẫn nộ cả bởi sự ngạo mạn của kẻ chủ mưu, kẻ dám xuất hiện ở Thượng viện như thể không có chuyện gì xảy ra, và bởi sự bất lực của các nhà chức trách.

Thông thường, biểu thức được sử dụng, nói lên sự suy đồi của đạo đức, lên án cả một thế hệ. Tuy nhiên, biểu cảm này cũng có thể trở thành một trò đùa hài hước.

7. Trong vino veritas, trong điều dưỡng thủy sinh
[trong các loại rượu vang, trong các loại thuốc thủy sinh]

“Sự thật là rượu, sức khỏe ở nguồn nước” - phần đầu của câu tục ngữ hầu như ai cũng biết, nhưng phần hai lại không được nhiều người biết đến.

8. Homo homini lupus est
[homo homini lupus est]

"Man is a wolf to man" là một thành ngữ trong bộ phim hài "Donkeys" của Plautus. Họ sử dụng nó khi họ muốn nói rằng mối quan hệ giữa con người với nhau là sự ích kỷ và thù hận.

Ở thời Xô Viết, cụm từ này được dùng để chỉ hệ thống tư bản chủ nghĩa, ngược lại, trong xã hội của những người xây dựng chủ nghĩa cộng sản, con người là bạn với con người, đồng chí và anh em.

9. Per aspera ad astra
[per aspera ed astra]

“Qua gian nan thành sao”. Cũng được sử dụng là biến thể "Аd astra per aspera" - "Đến những vì sao xuyên qua gai." Có lẽ là câu châm ngôn tiếng Latinh thơ mộng nhất. Tác giả của nó là của Lucius Anneus Seneca, một nhà triết học, nhà thơ và chính khách La Mã cổ đại.

10. Veni, vidi, Lower
[veni, see, Lower]

“Tôi đến, tôi thấy, tôi đã chinh phục” - đây là cách Gai Yuli Caesar viết trong một bức thư cho người bạn Amintius của mình về chiến thắng trước một trong những pháo đài ở Biển Đen. Theo Suetonius, chính những dòng chữ này đã được viết trên một tấm bảng được treo trong chiến thắng của Caesar để vinh danh chiến thắng này.

11. Gaudeamus igitur
[Gaudeamus Igitur]

“Vì vậy, chúng ta hãy vui chơi” - dòng đầu tiên của bài ca sinh viên của mọi thời đại và các dân tộc. Bài ca được tạo ra vào thời Trung cổ ở Tây Âu và trái với đạo đức khổ hạnh của nhà thờ, ca ngợi cuộc sống với những niềm vui, tuổi trẻ và khoa học của nó. Bài hát này trở lại với thể loại bài hát uống rượu của những người lang thang - những nhà thơ và ca sĩ lang thang thời trung cổ, trong số họ còn là sinh viên.

12. Màng cứng Lex SED lex
[dura lỏng lẻo, buồn lỏng lẻo]

Có hai phiên bản dịch của cụm từ này: "Luật pháp là khắc nghiệt, nhưng nó là luật pháp" và "Luật pháp là luật pháp." Nhiều người nghĩ rằng cụm từ này ám chỉ thời đại của luật La Mã, nhưng thực tế không phải vậy. Câu này có từ thời Trung cổ. Trong luật La Mã, chỉ có một sự mềm dẻo, cho phép mềm mại hóa văn tự của luật, pháp quyền.

13.Si vis speedm, para bellum
[se vis pack steam bellum]

14. Lặp lại trường học cũ studiorum
[phòng thu rapetyo est VR]

Một trong những câu châm ngôn được yêu thích nhất của người Latinh cũng được dịch sang tiếng Nga là câu tục ngữ “Lặp đi lặp lại là mẹ của việc học”.

15. Amor tussisque non celantur
[tình yêu tusisskve non tselantur]

"Yêu và ho không thể giấu được" - trong tiếng Latinh thực sự có rất nhiều câu nói về tình yêu, nhưng câu nói này đối với chúng tôi có vẻ cảm động nhất. Và có liên quan vào đêm trước của mùa thu.

Yêu xa, nhưng hãy khỏe mạnh!

Gutta cavat lapidem non vi, sed saepe cadendo - một giọt nước làm rỗng đá không phải do lực, mà do rơi thường xuyên

Bộ linh hoạt Fortiter ac - Mạnh mẽ và mạnh mẽ

Aucupia verborum sunt judice indigna - nghĩa đen dưới phẩm giá của một thẩm phán

Benedicite! - Giờ tốt!

Quisque est faber sua fortunae - mỗi người thợ rèn hạnh phúc cho riêng mình

Đọc phần tiếp theo của những câu cách ngôn và trích dẫn hay nhất trên các trang:

Natura incipit, ars dirigit usus perficit - thiên nhiên bắt đầu, nghệ thuật chỉ đạo, trải nghiệm được cải thiện.

Scio me nihil scire - Tôi biết tôi không biết gì

Potius sero quam nun quam - Muộn còn hơn không.

Decipi quam fallere est tutius - thà bị lừa còn hơn lừa người khác

Omnia vincit amor et nos cedamus amori »- Tình yêu chinh phục tất cả, và chúng ta phục tùng tình yêu

Dura lex, sed lex - luật thì khắc nghiệt, nhưng đó là luật

Lặp đi lặp lại trường học - lặp đi lặp lại là mẹ của việc học.

Hỡi sancta simplicitas! - Ôi, sự đơn giản thánh thiện

Quod non habet Principium, non habet finem - không có bắt đầu cũng không có kết thúc

Facta sunt potentiora verbis - hành động mạnh hơn lời nói

Accipere quid ut justitiam facias, non est tam accipere quam extorquere - chấp nhận phần thưởng cho việc quản lý công lý không được chấp nhận nhiều như hành vi tống tiền

Vui vẻ ngồi tibi! - Chúc may mắn!

Homo homini lupus est - người với sói

Aequitas enim lucet per se - công lý tự nó tỏa sáng

Citius, altius, fortius! - Nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn

AMOR OMNIA VINCIT - Tình yêu chinh phục mọi thứ.

Qui vult decipi, decipiatur - người muốn bị lừa dối, hãy để anh ta bị lừa

disce gaudere - Học cách vui mừng

Trích dẫn chí Jovi, không có chí - những gì được phép đối với sao Mộc không được phép đối với một con bò đực

Sogito ergo sum - Tôi nghĩ, do đó tôi tồn tại

Latrante una latrat st gặp thay đổi canis - khi một con chó sủa, con khác lập tức sủa

Facile omnes, cum valemus, directa consilia aegrotis damus - Tất cả chúng ta khi khỏe mạnh đều dễ dàng đưa ra lời khuyên cho bệnh nhân.

Aut Bene, aut nihil - Tốt hoặc không có gì

Haurit aquam cribro, qui discere vult sine libro - những người muốn học mà không có sách thì lấy nước bằng rây

Vona mente - Với ý định tốt

Aditum nocendi perfido praestat fides Sự tin tưởng được thể hiện với kẻ bội bạc tạo cơ hội cho hắn làm hại

Igni et ferro - Lửa và sắt

Bene qui latuit, Bene vixit - người sống bất cần đã sống tốt

Tình yêu không có thuốc chữa bệnh Herbis - không có thuốc chữa cho tình yêu (tình yêu không thể chữa khỏi bằng thảo mộc)

Senectus insanabilis morbus est - Tuổi già là bệnh nan y.

De mortuis autbene, aut nihil - about dead or good or nothing

Một hiệp ước quan sát cộng đồng - người ta không thể bỏ qua những gì được mọi người chấp nhận

Intelligenti pauca - Người khôn ngoan sẽ hiểu

Trong vino veritas, trong thủy sinh - sự thật trong rượu, sức khỏe trong nước.

Vis trực tràng vivere? Quis không? - Bạn có muốn sống tốt không? Ai không muốn?

Nihil habeo, nihil curo - Tôi không có gì - Tôi không quan tâm đến bất cứ điều gì

Scire leges non hoc est verba earum tenere, sed vim ac potestatem - biết luật không phải là nhớ từ mà là hiểu nghĩa của chúng

Quảng cáo ghi chú - Đối với một ghi chú ", lưu ý

Panem et Circenses - Bánh mì và rạp xiếc

DIXI ET ANIMAM LEVAVI - Tôi đã nói và làm cho tâm hồn mình dễ dàng hơn.

Sivis speedm para bellum - nếu bạn muốn hòa bình, hãy sẵn sàng cho chiến tranh

Corruptio tối ưu hóa pessima - mùa thu tồi tệ nhất là mùa thu của những gì tinh khiết nhất

Veni, vidi Lower - Tôi đã đến, tôi đã thấy, tôi đã thắng

Lupus pilum mutat, non mentem - sói thay lông, không phải bản chất

Ex animo - Từ trái tim

Chia et Impera - chia rẽ và chinh phục

Alitur vitium vivitque tegendo - bằng cách che giấu phó được nuôi dưỡng và duy trì

AUDI, MULTA, LOQUERE PAUCA - nghe nhiều, nói ít.

Là thần đồng fecit cui - Được tạo ra bởi người có lợi

Lupus pilum mutat, non mentem - sói thay lông, không phải bản chất

Ars longa, vita brevis - nghệ thuật lâu bền, tuổi thọ ngắn

Castigat ridento mores - Đạo đức cười "

De duobus malis tối thiểu eligendum - phải chọn ít hơn hai tệ nạn

Desipere in loco - Điên cuồng khi thích hợp

Bonum factum! - Vì những điều tốt đẹp và hạnh phúc!

Trong licentia maxa potentia minima - sức mạnh càng mạnh, càng ít tự do

Usus est Optimus Magister - Kinh nghiệm là người thầy tốt nhất

Lặp đi lặp lại trường học - lặp đi lặp lại là mẹ của việc học

Fac fideli sis fidelis - Chung thủy với người chung thủy (với bạn)

DOCENDO TIỂU LUẬN - học, chúng ta tự học.

Memento mori - nhớ về cái chết.

Vis dat, qui cito dat - ai cung nhanh chong cho doi

Mens sana in corpore sano - một tâm trí khỏe mạnh trong một cơ thể khỏe mạnh.

Nulla Rega sine exceptione - Không có quy tắc nào mà không có ngoại lệ.

Erare humanum est, stultum est in errore perseverare - một người mắc sai lầm là điều bình thường, thật ngu ngốc khi cố chấp mắc sai lầm

Primus inter pares - Đầu tiên trong số các loại tương đương

Festina cho mượn - nhanh chậm

omnia praeclara rara - Mọi thứ đẹp đẽ đều hiếm

Lặp đi lặp lại trường học - lặp đi lặp lại là mẹ của việc học.

Amicus plato, sed magis amica veritas - Plato là bạn của tôi, nhưng sự thật còn tồi tệ hơn

Melius est nomen bonum quam magnae divitiae - một cái tên tốt còn hơn cả sự giàu có.

Ipsa Scientia potestas est - tri thức tự nó là sức mạnh

FRONTI NULLA FIDES - đừng tin tưởng vào vẻ ngoài của bạn!

Aditum nocendi perfido praestat fides - lòng tin đối với kẻ bội bạc cho phép hắn làm hại

Qui nimium properat, serius ab solvit - người đang vội vàng, sau này anh ấy đối phó với công việc kinh doanh

Cornu copiae - Cornucopia

Dulce laudari a laudato viro - thật tuyệt khi nhận được lời khen ngợi từ một người đáng được khen ngợi

dum spiro, Spero - Trong khi tôi thở, tôi hy vọng

Feci auod potui, faciant meliora potentes - Tôi đã làm những gì tôi có thể, ai có thể, hãy để anh ấy làm tốt hơn

Dum spiro, Spero - trong khi tôi thở, tôi hy vọng

Abusus không tính phí sử dụng - lạm dụng không hủy bỏ việc sử dụng

Người phụ nữ hoàn lương Aliis - phục vụ người khác, tôi tự thiêu

Fortunam citius repeatrifs, quam retineas / Hạnh phúc dễ tìm hơn giữ.

Fiat lux - Để có ánh sáng

AUDIATUR ET ALTERA PARS - phía bên kia cũng nên được lắng nghe.

Melius sero quam nunquam - muộn còn hơn không

Et tu quoque, Brute! - Còn bạn Brute!

Ad impossibilia lex non cogit - luật không yêu cầu điều không thể

Một bộ sưu tập các câu châm ngôn, câu nói, cụm từ và cách diễn đạt bằng tiếng Latinh được thu thập cùng nhau từ nhiều nguồn khác nhau và có thể hữu ích cho mọi người cho những việc khác nhau.

một deo rex, một rege lex- từ Chúa là vua, từ luật của vua

một xúc sắc- Từ ngày này

một fortiori- đặc biệt

một chiếc limine- ngay lập tức = từ ngưỡng cửa

a nullo siêng năng, qui neminem siêng năng- không ai yêu một người, không ai yêu chính mình

hậu thế- from next = based on experience = dựa trên kinh nghiệm

tiên nghiệm- từ trước = dựa trên cái đã biết trước đó

ab absurdo- said to the điếc (ngu dốt, không hiểu) = nói một cách vô lý = về những lý lẽ và bằng chứng vô lý và sai lệch = nói nhảm nhí, vô nghĩa

ab acisa et acu- từ sợi đến kim = nói về điều này, về điều khác = từng từ một (Petronius)

ab actu ad potentiam- từ thực đến có thể

ab aeterno- mãi mãi

ab altero mong đợi, alteri quod feceris- mong đợi từ người khác những gì chính bạn đã làm cho người khác (Publius Sire)

hang động ab aqua silente- cẩn thận với vùng nước tĩnh = vùng nước tĩnh lặng chảy sâu

bắt cóc praedam, quy ước trước- kẻ chạy đến trước sẽ mang con mồi đi.

ab equis ad asinos- từ ngựa đến lừa = từ linh mục đến phó tế (Phúc âm)

ab hoedis segregare oves- tách cừu khỏi dê = tách ngũ cốc khỏi trấu = phân biệt đen với trắng

ab hoc et ab hac- và về điều này, và về điều này = và nói dối, và sang một bên

ab igne ignem- fire from fire = quid pro quo (Cicero)

ab imo pectore- from the deep of my soul = from the bottom of the soul = từ trái tim trong sáng (Lucretius)

ab incunabulis- từ trong nôi = ngay từ đầu = từ tã

ab Initio- lúc đầu

ab Initio mundu- từ đầu thế giới = từ sự sáng tạo của thế giới

ab starto nullum, semper nullum- không có gì lúc đầu - luôn luôn không có gì = không có gì có thể được khắc ra từ hư không = không có gì xuất phát từ hư không

ab jove Principium- bắt đầu từ sao Mộc (Virgil)

a bove majore discit arare thiếu niên- con già học cày = bố làm nghề chài lưới thì con trông nước.

ab ovo- từ trong trứng = ngay từ đầu = từ đầu = từ Adam

ab ovo usque ad mala- từ trứng đến táo = từ đầu đến cuối không bị gián đoạn = từ A đến Z (Horace)

điềm báo vắng mặt- đừng coi là điềm xấu

absque labore gravi non venit nulla seges- nếu không làm việc chăm chỉ, sẽ không có mùa màng nào đâm chồi nảy lộc = bạn không thể dễ dàng bắt được một con cá từ một cái ao

cautela non nocet- cẩn thận quá mức chẳng hại gì = người cẩn thận và được Chúa che chở = không biết bổ, đừng thò mũi xuống nước = đo bảy lần - chém một lần.

ab una disce omnes- đánh giá tất cả từng người một = cắt mọi người dưới cùng một kích thước (Virgil)

ab verbis ad verbera- Đi từ lời nói đến đòn roi = đi từ khuyên nhủ đến trừng phạt = đi từ lời nói đến việc làm = gắn bó kỷ luật

abyssus abyssum invocat- the abyss gọi tới vực thẳm = tương tự kéo theo tương tự = rắc rối không đến một mình

accepttissima semper munera sunt, aucor quae pretiosa facit- những món quà dễ chịu nhất là những món quà mà một người thân yêu của bạn mang đến (Ovid)

accipere quam facere praestat invuriam- thà chấp nhận còn hơn xúc phạm = thà xúc phạm còn hơn xúc phạm ai đó (Cicero)

ad assembly redire aliquem- để đưa ai đó vào mông, tức là nghèo đói = cho đi khắp thế giới (Horace)

ad calendas (= kalendas) graecas

ad carceres a calce revocare- return from finish to start = bắt đầu lại từ đầu (Cicero)

quảng cáo clavum- ngồi ở vị trí lãnh đạo = nắm giữ quyền lực của chính phủ (Cicero)

ad consilium ne accesseris, antequam voceris- không đến hội đồng cho đến khi họ gọi (Cicero)

addere calcaria tự phát hiện tại- để thúc giục một người chạy với ý chí tự do của riêng anh ta = không cần phải thúc giục một con ngựa tốt (Pliny)

mẫu quảng cáo- theo mẫu

đặc biệt- cho trường hợp này = cho mục đích này = nhân tiện

ad hominem- trong mối quan hệ với một người

quảng cáo vinh danh- vì lợi ích của danh dự = miễn phí = miễn phí

ad impossibilia nemo tensatur- không ai có nghĩa vụ đối với những điều không thể

quảng cáo infinitum- đến vô cùng

ad kalendas (= calendas) graecas- before the Greek calendars = never = sau cơn mưa vào thứ Năm

ad libitum- bất cứ điều gì bạn muốn = tùy chọn = tùy chọn

ad litteram- nghĩa đen = nghĩa đen = từng chữ = dạy kèm trong gia sư

mô-đun quảng cáo- như

quảng cáo notam- Để biết thông tin của bạn

ad notanda- cần lưu ý

notata quảng cáo- Ghi chú

quảng cáo patres- to the forefathers = die = go to the next world = give God your soul (Kinh thánh)

quảng cáo rem- đến điểm! = xuống kinh doanh!

ad unguem (factus homo)- đến móng tay (đến từng chi tiết nhỏ nhất) một người hoàn hảo = hoàn hảo (Horace)

ad usum- for use = để sử dụng

ad usum externum- dùng ngoài da

ad usum internum- để sử dụng trong nhà

ad usum proprium- để sử dụng cho riêng bạn

ad valorem- theo chi phí = theo giá

quảng cáo vogem- nhân tiện = về

aequo animo- dửng dưng = bình tĩnh

aequo animo audienda sunt imperitorum thuyết phục- người ta nên thờ ơ lắng nghe những lời chỉ trích của những kẻ ngu dốt (Seneca)

alea jasta est- cái chết được đúc = một giải pháp không cho phép quay trở lại quá khứ (Suetonius)

bí danh- at another time = ở một nơi khác

trường cũ- mẹ nuôi dưỡng = về trường đại học = về nơi sinh ra, nuôi nấng

altera pars- bên kia (đối diện)

thay đổi bản ngã- tôi khác = bạn thân nhất = người cùng chí hướng (Pythagoras)

amicus plato, sed magis amica (est) veritas- Plato là một người bạn, nhưng sự thật là một người bạn thậm chí còn vĩ đại hơn = Plato là bạn của tôi, nhưng sự thật còn thân thương hơn = sự thật là thân yêu nhất (Aristotle)

tình yêu non est medicabilis herbis- Tình yêu không thể chữa khỏi bằng thảo mộc = Căn bệnh của tình yêu là không thể chữa khỏi (Ovid)

anni currentis (a.c.)- Năm nay

ante christum (a.c.)- trước kỷ nguyên Cơ đốc giáo

aquila non captat muscas- đại bàng không bắt ruồi

argenteis hastis pugnare- chiến đấu bằng giáo bạc = tiền sẽ làm vỡ một viên đá

ars longa, vita brevis- nghệ thuật lâu bền, nhưng cuộc đời ngắn ngủi = sống và học hỏi

những người theo chủ nghĩa tự do artes- nghệ thuật tự do

artes molliunt mores- nghệ thuật làm dịu đi đạo đức

asini cauda non facit cribrum- đuôi lừa không thay thế được cái sàng

asinos non curo- những con lừa bị bỏ qua

asino non opus est verbis, sed fustibus- con lừa không cần lời nói, mà là một cây gậy

asinus quảng cáo lyram- con lừa phán xét đàn lia = hiểu như lợn trong cam (Gellius)

asinus asino et sus sui pulcher- một con lừa trông đẹp đẽ đối với một con lừa, và một con lợn trông giống một con lợn

asinus asino pulcherrimus- đối với một con lừa, không có con lừa nào đẹp hơn

asinus asinum fricat- donkey cọ xát với một con lừa = kẻ ngốc khen ngợi kẻ ngu ngốc

asinus buridani- Con lừa Buridan

asinus esuriens fustem negligit- con lừa đói không thèm để ý đến dùi cui (Homer)

asinus ở tegulis- con lừa trên mái nhà (Petronius)

asinus manbis ở saecula saeculorum- bạn sẽ mãi là một con lừa

asinus stramenta mavult quam aurum- con lừa thích rơm hơn vàng = không có đồng đội về mùi vị và màu sắc

một dung môi pigro tibi salis elige nigri- lấy ít nhất một mẩu muối đen từ một con nợ cẩu thả = ít nhất một búi len từ một con cừu đen

asperius nihil est làm nhục, kiêm phẫu thuật trong altem- không có điều gì khắc nghiệt hơn kẻ trỗi dậy từ hư vô (Eutropius)

aspicitur, non attrectatur- có thể nhìn thấy, nhưng không thể nắm lấy = mắt thấy, nhưng răng bị tê

assiduum mirabile non est- quen thuộc không làm vui

một teneris unguiculis- từ móng tay mỏng manh (mềm mại) (Cicero)

Athenas intrasse et solonem non vidisse!- ở Athens và không gặp Solon

atrocitati mansuetudo est remedium- hiền lành là một phương thuốc chống lại sự tàn ác (Phaedrus)

ủng hộ sự táo bạo- số phận giúp người dũng cảm

audacer calumniare, semper aliquid haeret- vu khống một cách táo bạo, luôn luôn để cho một cái gì đó còn lại (Plutarch)

audentem forsque venusque juvat- cả sao Kim và cơ hội may mắn đều giúp người dũng cảm (Ovid)

audentes deus ipse juvat- Chính Chúa giúp người dũng cảm (Ovid)

audiatur et altera pars- phía bên kia cũng nên được lắng nghe

audi, cerne, tace, si vis kiêm vivere nhịp độ- lắng nghe, chú ý, im lặng nếu bạn muốn sống trong hòa bình

audi, multa, loquere pauca- nghe nhiều, nói ít

học viện hào quang- tinh thần sinh viên (miễn phí) = cuộc sống sinh viên tự do

aurea tầm thường- ý nghĩa vàng (Horace)

aurea ne credas quaecumque nitescere cernis- không tin rằng những gì lấp lánh là vàng = không phải tất cả những gì lấp lánh đều là vàng

aurem vellere alicui- véo tai ai đó = nhắc nhở về điều gì đó

aureo hamo piscari- bắt cá bằng lưỡi câu vàng = hứa hẹn núi vàng

aures hominum novitate laetantur- tin tức (tính mới) làm vui lòng mọi người

auribus lupum tenere- giữ con sói bên tai = ở trong tình thế vô vọng

auriculas asini quis non habet- người không có tai lừa = và có một cái lỗ trên bà già (Persius)

auri sacra fames- cơn khát vàng bị nguyền rủa (Virgil)

auro quaeque janua panditur- bất kỳ cánh cửa nào cũng mở ra bằng vàng

aurora âm nhạc amica est- Aurora là bạn của những người trầm ngâm

aurum ex stercore colligendum- vàng và phân có thể được lấy = vàng và lấp lánh trong bùn

aurum pro luto habere- vàng, giống như phân, để có = tiền - gà không mổ (Petronius)

aurum recludit cuncta- vàng tiết lộ mọi thứ (Cicero)

aut aut- hoặc - hoặc = không có thứ ba

aut bibat, aut abeat- để anh ta uống hoặc bỏ đi (Cicero)

aut caesar, aut nihil- hoặc Caesar, hoặc không có gì = tất cả hoặc không có gì = hoặc chảo hoặc biến mất

aut kiêm scuto, aut trong scuto- với khiên hoặc trên khiên = chiến thắng trở về hoặc chết một anh hùng

avaritia copia non minuitur- của cải không giảm được lòng tham = bạn không thể lấp đầy cái thùng không đáy (Sallust)

avaritia omnia vitia habet- all vices from keo kiệt = keo kiệt là mẹ của mọi tệ nạn

trường học avaritia scelerum- lòng tham là mẹ của tội ác

avaro omnia desunt, sapienti nihil- kẻ tham lam thiếu tất cả, kẻ thông minh có đủ

avarum kích thích, không satiat pecunia- tham tiền làm phiền, và không no = tham lam không cho bản thân nghỉ ngơi (Publius Sire)

avarus animus nullo satiatur lucro- linh hồn hám lợi sẽ không hài lòng với bất kỳ của cải nào (Publius Sire)

avarus ipse misriae causa est suae- Chính sự háu ăn là nguyên nhân dẫn đến sự bất hạnh của anh ta (Publius Sire)

avarus, nisi cum moritur, nihil directum facit- kẻ hám lợi không làm gì có ích, ngoại trừ khi chết (Publius Sire)

ave, caesar, morituri te salutant- xin chào Caesar, những người đi vào cõi chết chào bạn

Chủ đề của bài viết - Những câu tục ngữ và câu nói trong tiếng La-tinh:

  • In vino veritas - Sự thật trong rượu vang.
  • Dies diem docet - Ngày dạy ngày.
  • Dum spiro, Spero - Trong khi tôi thở, tôi hy vọng.
  • Vivere est cogitare - Sống là phải nghĩ.
  • Aquila non captat muscas - Đại bàng không bắt ruồi.
  • Calamitas nulla sola - Rắc rối không đến từng lúc một.
  • Festina cho mượn - Nhanh lên từ từ.
  • Labour hominem firmat - Công việc làm khó một người.
  • Satur venter non Studet libenter - Bụng no căng thì điếc dạy.
  • Qualis vita et mors ita - Cuộc sống cũng vậy, cái chết cũng vậy.
  • Dicere non est facere - Nói là không làm.
  • Vox Populari, vox dei - Tiếng nói của con người là tiếng nói của Chúa.
  • Homo homini lupus est - Con người là một con sói đối với con người.
  • Tertium non datur - Thứ ba không được đưa ra.
  • Potius sero quam nunquam - Muộn còn hơn không.
  • Finis coronat opus - Kết thúc thỏa thuận.
  • Dum docetis, discitis - Khi chúng ta dạy, chúng ta học.
  • Omnia Mecum porto - Tất cả những gì là của tôi, tôi mang theo bên mình.
  • Fortes fortuna adiuvat - May mắn giúp người dũng cảm.
  • Qualis rex, talis grex - Đúng là một vị vua, thần dân như vậy.
  • Amicus verus rara avis est - Người bạn chân chính là loài chim quý hiếm.
  • Châm ngôn tiếng Latinh về giáo dục có bản dịch: Nosce te ipsum - Know yourself and Per aspera ad astra - Trải qua sự dày vò đến các vì sao.
  • Veni, vidi, Lower - Tôi đã đến, tôi đã thấy, tôi đã thắng.
  • Mens sana in corpore sano - Một trí óc khỏe mạnh trong một cơ thể khỏe mạnh.
  • Sole lucet omnibus - Mặt trời tỏa sáng cho mọi người. (Mọi người đều có cơ hội như nhau.)
  • Ave Caesar, kẻ xâm lược, người chào hỏi morituri te - Xin chào, Caesar, hoàng đế, người sắp chết xin chào ngài.
  • Lặp đi lặp lại trường học - Sự lặp đi lặp lại là mẹ của việc học.
  • Nulla die sine linea - Không một ngày không đột quỵ, không một ngày không một dòng.
  • Non rex est lex, sed lex est rex - Vua không phải là luật, mà luật là vua.
  • Chương trình giảng dạy trong mora! - Nguy hiểm trong sự chậm trễ!

Ngôn ngữ Latinh, tên tự - lingua Latina, hoặc Latinh, là ngôn ngữ của nhánh Latinh-Falisk của các ngôn ngữ Ý thuộc ngữ hệ Ấn-Âu. Ngày nay nó là ngôn ngữ Ý duy nhất được sử dụng tích cực (nó là một ngôn ngữ đã chết). Ngôn ngữ Latinh đã trình bày thuật ngữ luật học.

Cho đến nay, một trong những loại hình xăm phổ biến nhất là cụm từ. Trong số các hình thức ngôn ngữ khác, hình xăm Latinh là thủ lĩnh ở đây. Bộ sưu tập này chứa nhiều câu trích dẫn, cách ngôn, câu cửa miệng và câu nói của những người nổi tiếng. Trong số các cụm từ ngắn và dài, cuộc sống và khôn ngoan, thú vị và thú vị, bạn chắc chắn có thể tìm thấy điều gì đó theo ý thích của mình. Các cụm từ đẹp bằng tiếng Latinh sẽ trang trí cổ tay, vai, mắt cá chân và những nơi khác trên cơ thể bạn.

Ab imo pectore nghĩa là gì
Ab imo pectore nghĩa là gì

  • Non progredi est regredi

    Không tiến lên là lùi.

  • Homines quo plura habent, eo cupiunt ampliora

    Càng nhiều người có, họ càng muốn có

  • Gaudeamus igitur

    Vì vậy, chúng ta hãy vui vẻ

  • Gloria victoribus

    Vinh quang cho những người chiến thắng

  • Per risum multum debes cognoscere stultum

    Bạn phải nhận ra một kẻ ngốc khi cười quá thường xuyên

  • Homines non odi, sed ejus vitia

    Tôi ghét không phải một người, mà là tệ nạn của anh ta

  • Solaetrics amanda est et paternestandus est

    Chỉ có mẹ mới đáng yêu, người cha mới đáng trân trọng.

  • Victoria nulla est, Quam quae thú nhận những người dẫn chương trình animo quoque subjugat

    Chiến thắng thực sự chỉ khi chính kẻ thù thừa nhận mình bị đánh bại.

  • Chia et impera

    Chia ra và cai trị

  • Heu conscienta animi gravis est servitus

    Tệ hơn nô lệ một sự hối hận

  • Lupus non mordet lupum

    Con sói sẽ không cắn con sói

  • Ira Initium insaniae est

    Giận dữ là khởi đầu của sự điên rồ

  • Perigrinatio est vita

    Cuộc đời là một chuyến đi

  • Fortunam citius reperis, quam retineas
  • Heu quam est timendus qui mori tutus putat!

    Anh ta thật khủng khiếp, kẻ tôn vinh cái chết vì điều tốt đẹp!

  • Hoc est vivere bis, vita posse priore trái cây

    Để có thể tận hưởng một cuộc sống đã sống là sống hai lần.

  • Mea vita et anima es

    Bạn là cuộc sống và linh hồn của tôi

  • Phúc bồn tử

    Hoa quả của thời gian

  • Gutta cavat lapidem

    Một giọt làm mòn một viên đá

  • Fors omnia so với

    Cơ hội mù quáng thay đổi mọi thứ (ý chí của cơ hội mù quáng)

  • De gustibus non disputandum est

    Hương vị không thể thảo luận

  • Fortunam suam quisque parat

    Mỗi người đều tìm thấy số phận của riêng mình

  • Jucundissimus est amari, sed không trừ amare

    Thật dễ chịu khi được yêu, nhưng không kém phần dễ chịu khi yêu chính mình

  • Hominis est errare

    Con người có xu hướng phạm sai lầm

  • Cogitationes poenam nemo patitur

    Không ai bị trừng phạt vì những suy nghĩ

  • Aut viam inveniam, aut faciam

    Hoặc tôi sẽ tìm thấy một con đường, hoặc tôi sẽ tự đi

  • Nhạc disco không ignara mali, disco misris succurrere

    Đã học được sự bất hạnh, tôi đã học được cách giúp đỡ những người đau khổ

  • Pecunia non olet

    Tiền không có mùi

  • Optimum dược phẩm quies est

    Thuốc tốt nhất là nghỉ ngơi

  • Nunquam retrorsum, thành phần semper

    Không lùi một bước, luôn tiến về phía trước

  • Melius est nomen bonum quam magnae divitiae

    Một cái tên tốt còn hơn cả sự giàu có

  • Etiam vô tội cogit mentiri dolor

    Nỗi đau làm cho cả những lời nói dối vô tội

  • Non est fumus absque igne

    Không có khói mà không có lửa

  • Suum cuique

    Cho mỗi người của riêng mình

  • Dolus an Virtus quis trong hoste Demrat?

    Ai sẽ phân loại giữa xảo quyệt và dũng cảm khi đối đầu với kẻ thù?

  • Mea mihi conscientia pluris est quam omnium sermo

    Lương tâm của tôi quan trọng đối với tôi hơn tất cả những lời đàm tiếu

  • Lupus pilum mutat, không phải mentem

    Con sói thay lông, không phải thiên nhiên

  • Qui tacet - agreeire videtur

    Ai im lặng coi như đồng ý

  • Scio me nihil scire

    Tôi biết là tôi chằng biết thứ gì

  • Ở tốc độ

    Trên thế giới, một mình

  • Ducunt volentem fata, nolentem trahunt

    Định mệnh dắt kẻ muốn đi, kẻ không muốn thì níu kéo.

  • Fuge, late, tace

    Chạy, trốn, im lặng

  • Audi, multa, loquere pauca

    Nghe nhiều, nói ít

  • Nolite dicere, si nescitis

    Đừng nói nếu bạn không biết

  • Flagrante mê sảng

    Tại hiện trường vụ án, bàn tay đỏ

  • Persona grata

    Người được mong muốn hoặc đáng tin cậy

  • Tantum obumus, scimus lượng tử

    Nhiều như chúng ta có thể biết

  • Per fas et nefas

    Bằng móc hoặc bởi kẻ lừa đảo

  • Jactantius maerent, quae trừ dolent

    Những người ít đau buồn là những người thể hiện sự đau buồn của họ nhiều nhất.

  • Omne ignotum pro Magfico est

    Tất cả những điều chưa biết có vẻ hùng vĩ

  • Educa te ipsum!

    Tự giáo dục bản thân!

  • Facile omnes, cum valemus, trực tràng consilia aegrotis damus

    Khi chúng ta khỏe mạnh, chúng ta sẽ dễ dàng đưa ra những lời khuyên tốt cho người bệnh.

  • Veni, vidi, Lower

    Tôi đến, tôi thấy, tôi đã chinh phục

  • Quae nocent - docent

    Những gì đau khổ dạy

  • Sic itur ad astra

    Vì vậy, họ đi đến các vì sao

  • Quae fuerant vitia, mores sunt

    Tệ nạn là gì, bây giờ là đạo đức

  • Omnia vincit amor et nos cedamus amori

    Tình yêu chinh phục tất cả và chúng ta đầu hàng trước tình yêu

  • Ex nihilo nihil fit

    Không có gì đến từ không có gì

  • Qui nisi sunt Veri, ratio quoque falsa sit omnis

    Nếu tình cảm không phải là sự thật, thì toàn bộ tâm trí của chúng ta sẽ trở thành giả dối.

  • Trong vino veritas, trong thủy sinh

    Sự thật nằm trong rượu, sức khỏe trong nước

  • Fugit tạm thời không thể hủy bỏ

    Thời gian không thể đảo ngược đang chạy

  • Certum voto pete finem

    Chỉ đặt cho mình những mục tiêu rõ ràng (có thể đạt được)

  • Injuriam facilius facias guam feras

    Dễ bị tổn thương, khó chịu đựng hơn

  • Ira furor brevis est

    Giận dữ là sự điên cuồng nhất thời

  • Sua cuique fortuna in manu est

    Mỗi người đều có vận mệnh của riêng mình trong tay

  • Adversa fortuna
  • Aetate trái cây, điện thoại di động ...

    Tận dụng cuộc sống, nó rất phù du

  • Amicos res secundae parant, adversae probant

    Hạnh phúc tạo ra bạn bè, bất hạnh kiểm tra họ

  • Aliis insertviendo obsor

    Tôi lãng phí bản thân khi phục vụ người khác

  • Tinh hoàn mụn thịt Conscientia

    Lương tâm - ngàn nhân chứng

Ab imo pectore nghĩa là gì
Ab imo pectore nghĩa là gì

  • Abiens, abi!

    Bỏ đi!

  • Câu trả lời không phải là es

    Vứt bỏ những gì bạn không có

  • Quomodo fabula, sic vita: non quam diu, sed quam Bene acta sit refert

    Cuộc sống giống như một vở kịch trong nhà hát: nó không kéo dài bao lâu, mà là nó được diễn ra như thế nào.

  • Edite, bibite, nulla voluptas sau khám nghiệm!

    Ăn, uống, không có thú vui sau khi chết!

  • Lỗ hổng Omnes, bệnh hoại tử ultima

    Mỗi giờ đau, giờ cuối cùng giết chết

  • Fama volat

    Trái đất đầy tin đồn

  • Tình yêu omnia vincit

    Tình yêu chinh phục tất cả

  • Chuyên gia tư vấn homini tempus utilissimus

    Thời gian là cố vấn hữu ích nhất cho một người

  • Ex ungua leonem cognoscimus, ex auribus asinum

    Chúng ta nhận ra sư tử bằng móng vuốt và con lừa bằng tai

  • Facta sunt potentiora verbis

    Hành động mạnh hơn lời nói

  • Tiểu đường liên

    Trong bốn bức tường

  • Fortiter in re, suaviter in modo

    Vững vàng trong kinh doanh, nhẹ nhàng trong xử lý

  • Manus manum lavat

    Rửa tay

  • Per aspera ad astra

    Vượt qua khó khăn đến các vì sao

  • Cujusvis hominis est errare; nullius, nisi insipientis trong errore perseverare

    Ai cũng mắc sai lầm là chuyện thường tình, nhưng chỉ có kẻ ngốc mới cố chấp phạm sai lầm.

  • Tanta vis probitatis est, ut eam etiam trong hoste siêng năng

    Sức mạnh của sự trung thực đến nỗi chúng ta đánh giá cao nó ngay cả từ kẻ thù

  • Aut caesar, aut nihil

    Hoặc Caesar hoặc không gì cả

  • Trong ghi nhớ
  • Castigo te non quod odio habeam, sed quod amem

    Tôi trừng phạt bạn không phải vì tôi ghét, mà vì tôi yêu

  • Tình yêu etiam deos tangit

    Ngay cả các vị thần cũng phải chịu tình yêu

  • Incedo per ignes

    Đi bộ giữa lửa

  • Sequere deum

    Làm theo ý muốn của Chúa

  • Nghi ngờ là một nửa khôn ngoan

  • Esse oportet ut vivas, non vivere ut edas

    Người ta phải ăn để sống, không phải sống để ăn

  • In vino veritas

    Sự thật là trong rượu

  • Ex malis eligere minima

    Chọn ít tệ nạn nhất

  • Tối ưu hóa consiliarii mortui

    Những cố vấn tốt nhất là những người đã chết

  • Ex ungue leonem

    Bạn có thể nhận ra sư tử bằng móng vuốt của nó

  • Vivere est vincere

    Sống là phải chiến thắng

  • Incertus animus dimidium sapientiae est

    Nghi ngờ là một nửa khôn ngoan

  • Tuổi già bất thường

    Sống là phải hành động

  • Feci quod potui, faciant meliora potentes

    Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể, bất cứ ai có thể, hãy để anh ta làm tốt hơn

  • Feminae naturam regereprisrare est otium

    Đã nghĩ đến nhục nhã đàn bà, nói lời bình an vô sự!

  • Dum spiro, amo atque credo

    Chỉ cần tôi thở, tôi yêu và tin tưởng

  • Festina đậu lăng

    Nhanh lên từ từ

  • Calamitas Virtutis thỉnh thoảng

    Tai họa là đá tảng của lòng dũng cảm

  • Omnes homines agunt histrionem

    Tất cả mọi người đều là diễn viên trên sân khấu của cuộc đời

  • Lucri bonus est mùi ex re Qualibet

    Mùi của lợi nhuận rất dễ chịu, bất kể nó đến từ gì

  • Factum est factam

    Những gì đã làm là xong (thực tế là thực tế)

  • Bỏ qua cito saepe alteri, nunquam tibi

    Tạm biệt người khác thường xuyên, với chính mình - không bao giờ

  • Tempora mutantur et nos mutamur in illis

    Thời gian thay đổi và chúng tôi thay đổi theo chúng

  • Tarde venientibus ossa

    Ai đến muộn - xương

  • Imago animi vultus est

    Khuôn mặt là tấm gương của tâm hồn

  • Homo hominis amicus est

    Con người là bạn của con người

  • Homines, dum docent, discunt

    Mọi người đang học, đang học

  • Mors nescit legem, số điện thoại kiêm paupere regem

    Cái chết không biết luật, giết cả vua và người nghèo

  • Quod cito fit, cito perit

    Điều gì xảy ra sớm, sớm đổ vỡ

  • Amor non est medicabilis herbis

    Tình yêu không thể được điều trị bằng thảo mộc

  • Ống kính finis, sed non amoris

    Cuộc sống kết thúc, nhưng không phải tình yêu

  • Fidelis et forfis

    Trung thành và dũng cảm

  • Fide, sed cui fidas, vide

    Hãy cảnh giác; tin tưởng, nhưng hãy nhìn người bạn tin tưởng

  • Experientia est optima magistra

    Kinh nghiệm giáo viên tốt nhất

  • Verae amititiae sempiternae sunt

    Tình bạn đích thực là mãi mãi

  • Damant, quod non intelegunt

    Lên án vì họ không hiểu

  • Descensus avernoosystemis est

    Đường xuống địa ngục thật dễ dàng

  • Viva vox alit plenius

    Lời nói trực tiếp nuôi dưỡng thêm dồi dào

  • Vivamus atque amemus

    Hãy sống và yêu thương

  • De mortuis aut Bene, aut nihil

    Về chết hoặc tốt hoặc không có gì

  • Ad pulchritudinem ego excitata sum, Elegantia spiro et artem efflo

    Tôi được đánh thức với vẻ đẹp, hít thở sự duyên dáng và tỏa sáng nghệ thuật

  • Deus ipse se fecit

    Chúa tạo ra chính mình

  • Aequam memento rebus trong arduis servare mentem
  • Primus inter pares

    Đầu tiên trong bình đẳng

  • Gustus legibus non subiacet

    Hương vị bất chấp luật pháp

  • Semper mors subest

    Cái chết luôn cận kề

  • Còn sống, còn hy vọng!

    Trong khi tôi thở, tôi hy vọng!

  • Homines amplius oculis, quam auribus credunt

    Mọi người tin vào mắt hơn tai

  • Benefacta nam locata malefacta Arbitror

    Tôi coi những lợi ích dành cho những người không xứng đáng là những hành động tàn bạo

  • Pháo đài fortuna adjuvat

    Số phận giúp người dũng cảm

  • Màng cứng Lex SED lex

    Luật pháp là khắc nghiệt, nhưng nó là luật

Ab imo pectore nghĩa là gì
Ab imo pectore nghĩa là gì

  • Audi, vide, sile

    Lắng nghe, xem và im lặng

  • Omnia Mecum porto

    Tôi mang theo mọi thứ bên mình

  • Omnia, quae volo, adipiscar

    Tôi đạt được mọi thứ tôi muốn

  • Omnia mors aequat

    Cái chết bằng tất cả

  • Fama ngaoosa

    Vinh quang lớn

  • Igne natura cải tạo tích hợp

    Toàn bộ thiên nhiên được đổi mới bằng lửa

  • Si vis amari, ama

    Nếu bạn muốn được yêu, hãy yêu

  • Trong tôi omnis spes mihi est

    Tất cả hy vọng của tôi là ở chính tôi

  • Aut vincere, aut mori

    Hoặc chiến thắng hoặc chết

  • Mens sana trong corpore sano

    Trong một cơ thể khỏe mạnh tâm trí khỏe mạnh

  • Aliena vitia trong oculis habemus, và tergo nostra sunt

    Tệ nạn của người khác ở trước mắt, của chúng ta ở sau lưng

  • Varietas delectat

    Đa dạng là thú vị

  • Naturalia non sunt turpia

    Tự nhiên không đáng xấu hổ

  • Trong venere semper certat dolor et gaudium

    Nỗi đau và niềm vui luôn cạnh tranh trong tình yêu

  • Nusquam sunt, qui ubique sunt

    Không nơi nào có những người ở khắp mọi nơi

  • Vi xác minh vniversum vivus Lower

    Tôi đã chinh phục vũ trụ bằng sức mạnh của sự thật trong suốt cuộc đời của mình

  • Quo quisque sapientior est, eo solet esse modestior

    Người càng thông minh thì càng khiêm tốn.

  • Si vis speedm, para bellum

    Nếu bạn muốn hòa bình, chuẩn bị cho chiến tranh

  • Sed semel insanivimus omnes

    Một ngày nào đó tất cả chúng ta đều mất trí

  • Infelicissimum chi infortunii est fuisse felicem

    Bất hạnh lớn nhất là hạnh phúc trong quá khứ.

  • Trong vitium ducit culpae fuga

    Mong muốn tránh những sai lầm dẫn đến một

  • Tertium non datur

    Không có thứ ba

  • Quid quisque vitet, nunquam homini thoả mãn ca đờm est in horas

    Không ai có thể biết khi nào cần đề phòng nguy hiểm

  • Mors omnia solvit

    Cái chết giải quyết mọi vấn đề

  • Memento mori

    memento Mori

  • Memento quia pulvis est

    Hãy nhớ bạn là cát bụi

  • Trong aeternum

    Mãi mãi

  • Trong leones nhịp độ, trong proelio cervi

    Trong thời bình - sư tử, trong trận chiến - hươu

  • Inter arma im lặng Leges

    Khi vũ khí réo rắt, luật pháp im lặng

  • Nitinur in vetitum semper, cupimusque negata

    Chúng tôi luôn phấn đấu cho những điều bị cấm và mong muốn những điều bất hợp pháp.

  • Tempus fugit

    Thời gian sắp hết

  • Carpe diem

    Nắm bắt ngày (thời điểm)

  • Homo homini lupus est

    Con người là một con sói đối với con người

  • Corrige praeteritum, praesens rege, cerne futurum

    Chỉnh sửa quá khứ, hướng dẫn hiện tại, hình dung tương lai

  • Oderint dum metuant

    Hãy để họ ghét, giá như họ sợ

  • Vita sine libertate, nihil

    Cuộc sống mà không có tự do là không có gì

  • Cum vitia hiện tại, paccat qui trực tràng facit

    Khi tệ nạn sinh sôi, người sống lương thiện phải gánh chịu.

  • Ibi potest valere popus, ubi Leges valent

    Nơi luật pháp có hiệu lực và người dân mạnh mẽ

  • Leve fit, quod Bene fertur onus

    Tải trọng trở nên nhẹ khi được mang theo với sự tuân thủ

  • Imperare sibi tối đa imperium est

    Chỉ huy bản thân là sức mạnh lớn nhất

  • Tu ne nhượng lại malis, sed contra audentior ito!

    Đừng khuất phục trước bất hạnh mà hãy mạnh dạn đi gặp nó!

  • Beatitudo nоn est Virtutis praemium, sed ipsa Virtus

    Hạnh phúc không phải là phần thưởng cho lòng dũng cảm, mà chính là sự dũng cảm

  • Tình yêu, ut lacrima, ab oculo oritur, bằng cor cadit

    Tình yêu, như giọt nước mắt, sinh ra từ mắt, rơi xuống trái tim

  • Esse quam videri

    Có vẻ như không phải

  • Felix, qui quod amat, Defender fortiter audet

    Hạnh phúc là anh ấy mạnh dạn bảo vệ những gì anh ấy yêu thích

  • Sol lucet omnibus

    Mặt trời chiếu vào mọi người

  • Odi et amo

    Tôi ghét và yêu

  • Cogito, tổng hợp ergo

    Tôi nghĩ, do đó tôi

  • Actum ne agas

    Việc gì đã xong, đừng quay lại nó

  • Ab altero mong đợi, alteri quod feceris

    Mong đợi từ người khác những gì bản thân bạn đã làm cho người khác

  • Amantes sunt amentes

    Những người yêu nhau là mất trí

  • Antiquus amor ung thư est

    Tình cũ không quên

  • Cui ridet Fortuna, eum ignorerat Femida

    Fortune mỉm cười với ai, Themis không nhận ra

  • Omnia fluunt, omnia mutantur

    Mọi thứ đều chảy, mọi thứ đều thay đổi

  • Ut ameris, amabilis esto

    Để được yêu, hãy xứng đáng với tình yêu

  • Ubi nihil vales, ibi nihil velis

    Nơi bạn không có khả năng làm bất cứ điều gì, bạn không nên muốn bất cứ điều gì

  • Similis simili gaudet

    Như vui mừng như

  • Trong dubio kiêng

    Nếu nghi ngờ, hãy kiềm chế

  • Utatur motu animi qui uti ratione non potest

    Ai không thể tuân theo mệnh lệnh của lý trí, hãy để người đó làm theo chuyển động của linh hồn

  • Omnia praeclara rara

    Mọi thứ đẹp đều hiếm

  • Trong Daemon Deus!

    Trong Ác ma, Chúa ơi!

  • Sibi imperare max imperium est

    Quyền lực cao nhất là quyền lực đối với chính mình

  • Terra incognita

    Vùng đất không xác định

  • Mores cuique sui fingit fortunam

    Số phận của chúng ta phụ thuộc vào đạo đức của chúng ta

  • Nihil est ab omni parte beatum

    Không có gì là an toàn về mọi mặt

  • Meliora Spero

    Hy vọng điều tốt nhất

  • Natura abhorret chân không

    Thiên nhiên ghét chân không

  • Homo sum et nihil human a me alieum puto

    Tôi là con người và không có gì con người xa lạ với tôi

  • Si etiam omnes, cái tôi không

    Ngay cả khi mọi thứ không phải là tôi

  • Mortem effugere nemo potest

    Không ai có thể thoát khỏi cái chết

  • Audire ignoreti quom imperant soleo non auscultare

    Tôi sẵn sàng lắng nghe sự ngu ngốc, nhưng tôi sẽ không tuân theo

  • Nihil habeo, nihil curo

    Tôi không có gì - tôi không quan tâm đến bất cứ điều gì

  • Tanto brevius omne tempus, quanto felicius est

    Thời gian trôi càng nhanh càng hạnh phúc

  • Petite, et dabitur vobis; quaerite et invenietis; pulsate, et aperietur vobis

    Hãy hỏi, và nó sẽ được đưa cho bạn; tìm kiếm và bạn sẽ tìm thấy; gõ và mở cho bạn

  • Trong bạo chúa

    Chống lại bạo chúa

  • Veni, vidi, fugi

    Tôi đến, tôi nhìn thấy, tôi bỏ chạy


Ab imo pectore nghĩa là gì

Ngọc trai của tư tưởng

NEC MORTALE SONAT

(ÂM THANH NGAY LẬP TỨC)Các câu khẩu hiệu tiếng Latinh

Amico lectori (Gửi bạn đọc)

Cần sa magistra. - Need là một người cố vấn (Need sẽ dạy tất cả mọi thứ).

So sánh: “Tiêu cực cho phát minh là xảo quyệt”, “Bạn sẽ đan những đôi giày khốn nạn như không có gì để ăn”, “Nếu bạn đói, bạn sẽ đoán bánh mì”, “Suma và nhà tù sẽ cho tâm trí”. Một ý nghĩ tương tự cũng được tìm thấy trong nhà thơ La Mã Ba Tư ("Satires", "Prologue", 10-11): "Người dạy nghệ thuật là cái dạ dày." Từ các tác giả Hy Lạp - trong vở hài kịch của Aristophanes "Plutos" (532-534), ở đó Sự nghèo đói, thứ mà họ muốn trục xuất khỏi Hellas (Hy Lạp), chứng minh rằng đó là cô ấy, chứ không phải thần của cải Plutos (đối với niềm vui của mọi người , được chữa khỏi bệnh mù trong đền thờ thần chữa bệnh Asclepius và bây giờ phung phí bản thân như một người phàm), là người ban cho tất cả các phước lành, buộc mọi người phải tham gia vào khoa học và thủ công.

Nemo omnia potest scire. - Không ai có thể biết tất cả mọi thứ.

Cơ sở là những lời của Horace ("Odes", IV, 4, 22), được lấy làm nguyên văn trong từ điển tiếng Latinh, do nhà ngữ văn người Ý Forcellini biên soạn: "Không thể biết mọi thứ." Hãy so sánh: "Bạn không thể nắm lấy sự bao la."

Nihil habeo, nihil timeo. - Tôi không có gì - Tôi không sợ gì cả.

So sánh với Juvenal ("Satire", X, 22): "Một khách du lịch không có gì với anh ta sẽ hát trước sự chứng kiến ​​của một tên cướp." Cũng với câu tục ngữ “Nhà giàu không ngủ được sợ kẻ trộm”.

Nil sub sole novum. - Không có gì mới dưới ánh mặt trời.

Từ Sách Truyền đạo (1, 9), tác giả của cuốn sách này được cho là vị vua khôn ngoan Sa-lô-môn. Vấn đề là một người không thể nghĩ ra bất cứ điều gì mới, bất kể anh ta làm gì, và mọi thứ xảy ra với một người không phải là một hiện tượng ngoại lệ (đôi khi có vẻ như đối với anh ta), mà đã xảy ra trước anh ta và sẽ được lặp lại sau.

Noli nocere! - Không làm hại!

Điều răn chính của bác sĩ, còn được biết đến dưới dạng "Primum non nocere" ("Trước hết, không được làm hại"). Công thức của Hippocrates.

Noli tangere luân chuyển meos! - Đừng chạm vào vòng kết nối của tôi!

Về điều gì đó bất khả xâm phạm, không thể thay đổi, không cho phép can thiệp. Nó dựa trên những lời cuối cùng của nhà toán học và cơ học người Hy Lạp Archimedes, được trích dẫn bởi nhà sử học Valery Maxim ("Những công việc và lời nói đáng nhớ", VIII, 7, 7). Lấy Syracuse (Sicily) vào năm 212 trước Công nguyên, người La Mã đã ban cho anh ta sự sống, mặc dù những cỗ máy do các nhà khoa học phát minh đã đánh chìm và phóng hỏa tàu của họ. Nhưng vụ cướp bắt đầu, và những người lính La Mã tiến vào sân của Archimedes và hỏi anh ta là ai. Nhà khoa học đã nghiên cứu bản vẽ và thay vì trả lời, anh ta lấy tay che nó lại và nói: "Đừng chạm vào nó"; anh ta bị giết vì không vâng lời. Về điều này - một trong những "Câu chuyện đã học" của Felix Krivin ("Archimedes").

Điềm báo. “Cái tên là một dấu hiệu.

Nói cách khác, cái tên tự nó nói lên điều gì đó thông báo về một người, báo trước số phận của người đó. Nó dựa trên bộ phim hài của Plautus "Pers" (IV, 4, 625): bán một cô gái ma cô tên là Lukrida, có cùng gốc với lucrum trong tiếng Latinh (lợi nhuận), Toxil thuyết phục anh ta rằng một cái tên như vậy hứa hẹn một thỏa thuận tốt. .

Nomina sunt odiosa. - Tên là không mong muốn.

Lời kêu gọi nói về những thành tích, không mang tính cá nhân, không nêu những cái tên nổi tiếng. Cơ sở là lời khuyên của Cicero ("In Defense of Sextus Roscius Ameriytsa", XVI, 47) không đề cập đến tên của những người quen mà không có sự đồng ý của họ.

Non bis trong idem. - Không phải hai lần cho một.

Điều này có nghĩa là bạn không bị phạt hai lần cho một lần vi phạm. Hãy so sánh: "Hai tấm da không rách của một con bò."

Không giám tuyển, quy curat. - Ai có lo lắng thì không khỏi.

Dòng chữ về các điều khoản (phòng tắm công cộng) ở La Mã cổ đại.

Non est culpa vini, sed culpa bibentis. - Rượu không đáng trách, người uống mới đáng trách.

Từ câu đối của Dionysius Katbna (II, 21).

Không omnis moriar. - Không phải tất cả tôi sẽ chết.

Vì vậy, Horace trong một ca khúc (III, 30, 6), được gọi là "Tượng đài" (xem bài "Exegiumentum"), nói về những bài thơ của mình, lập luận rằng trong khi vị linh mục thượng phẩm sẽ lên Đồi Capitol, thực hiện một lời cầu nguyện hàng năm cho những điều tốt đẹp. Rome (mà những người La Mã, giống như chúng ta, được gọi là Thành phố Vĩnh cửu), sẽ phát triển và vinh quang của ông, Horace, không thể phai mờ. Giai điệu này vang lên trong tất cả các bản rehash của "Monument". Ví dụ, trong Lomonosov ("Tôi đã dựng lên một dấu hiệu bất tử cho chính mình ..."): "Tôi sẽ không chết chút nào, nhưng cái chết sẽ để lại // một phần lớn lao của tôi, như tôi sẽ kết thúc cuộc đời mình . " Hay trong Pushkin ("Tôi đã dựng lên một tượng đài cho chính mình không phải do bàn tay tạo ra ..."): Gặp rồi, tất cả tôi sẽ không chết - linh hồn trong đàn lia ấp ủ // tro tàn của tôi sẽ tồn tại và mục nát sẽ chạy trốn. "

Non progredi est regredi. “Anh ấy đang tiến về phía trước là đi lùi.”

Không phải rex est lex, sed lex est rex. “Vua không phải là luật, mà luật là vua.

Non scholae, sed vitae discimus. - Chúng ta học không phải để học, mà học suốt đời.

Nó dựa trên lời trách móc của Seneca ("Những bức thư đạo đức cho Lucilius", 106, 12) đối với những triết gia ngồi ghế bành, những người có suy nghĩ xa rời thực tế và tâm trí ngổn ngang với những thông tin vô bổ.

Saturnalia không semper erunt. - Không phải lúc nào cũng có Saturnalia (ngày nghỉ, ngày vô tư).

So sánh: "Không phải tất cả mọi thứ đối với con mèo là Shrovetide", "Không phải mọi thứ với vật dụng, bạn sẽ sống với kvass." Nó được tìm thấy trong tác phẩm "The Apotheosis of the Divine Claudius" của Seneca (12). Saturnalia được tổ chức hàng năm vào tháng 12 (từ năm 494 trước Công nguyên), để tưởng nhớ thời kỳ hoàng kim (thời đại thịnh vượng, bình đẳng, hòa bình), khi, theo truyền thuyết, Saturn, cha đẻ của Jupiter, trị vì ở vùng Latius (nơi Rome đã được đặt). Mọi người vui chơi trên đường phố, thăm thú; ngừng công việc, thủ tục pháp lý, việc phát triển các kế hoạch quân sự. Trong một ngày (19 tháng 12), những người nô lệ nhận được tự do, ngồi cùng bàn với những người chủ ăn mặc giản dị, người còn phục vụ họ.

Không tính tổng bằng eram. “Tôi không phải là tôi trước đây.

Đã già đi, Horace ("Odes", IV, 1, 3) hỏi
nữ thần tình yêu Venus hãy để anh ấy yên.

Nosce te ipsum. - Biết chính mình.

Theo truyền thuyết, dòng chữ này được khắc trên bệ của ngôi đền nổi tiếng của thần Apollo ở Delphi (miền Trung Hy Lạp). Người ta kể rằng đã có lần bảy nhà hiền triết Hy Lạp (thế kỷ VI trước Công nguyên) tụ tập gần đền thờ Delphic và đặt câu nói này làm cơ sở cho tất cả sự khôn ngoan của người Hy Lạp (Hy Lạp). Nguyên bản tiếng Hy Lạp của cụm từ này, "gnothi seauton," được trích dẫn bởi Juvenal (Satires, XI, 27).

Novus rex, nova lex. - Vua mới - luật mới.

So sánh: “Chổi mới quét nhà”.

Nulla ars trong se versatur. - Không một nghệ thuật nào (không phải một ngành khoa học duy nhất) tự khép mình vào.

Cicero ("Về ranh giới của thiện và ác", V, 6, 16) nói rằng mục tiêu của mỗi ngành khoa học nằm bên ngoài nó: vì vậy, chữa bệnh là khoa học về sức khỏe.

Nulla calamitas sola. - Rắc rối không phải là một.

Hãy so sánh: "Rắc rối đã đến - hãy mở cổng", "Rắc rối kéo đến bảy rắc rối."

Nulla chết sine linea. - Không một ngày nào không có một dòng.

Lời kêu gọi thực hành nghệ thuật của bạn hàng ngày; một phương châm xuất sắc cho một nghệ sĩ, nhà văn, nhà xuất bản. Nguồn gốc là câu chuyện của Pliny the Elder (Lịch sử tự nhiên, XXXV, 36, 12) kể về Apelles, một họa sĩ người Hy Lạp ở thế kỷ thứ 4. BC, mà mỗi ngày tổ chức ít nhất một dòng. Bản thân Pliny, một chính trị gia và nhà khoa học, tác giả của tác phẩm bách khoa 37 tập "Lịch sử tự nhiên" ("History of Nature"), chứa đựng khoảng 20.000 dữ kiện (từ toán học đến lịch sử nghệ thuật) và sử dụng thông tin từ các tác phẩm của gần 400 tác giả. , tuân theo quy tắc này suốt cuộc đời Apelles, điều này đã trở thành cơ sở cho câu đối: "Theo di chúc của Elder Pliny, // Nulla chết sine linea".

Nulla salus bello. - Không có gì tốt trong chiến tranh.

Trong Aeneid của Virgil (XI, 362), người Latin Drank cao quý yêu cầu vua của Rutuls Thurnus chấm dứt cuộc chiến với Aeneas, trong đó nhiều người Latinh chết: hoặc nghỉ hưu, hoặc chiến đấu với người hùng, để con gái của vua Latina và vương quốc đi đến người chiến thắng.

Nunc vino pellite curas. - Bây giờ hãy xua tan nỗi lo của bạn với rượu vang.

Trong bài ca ngợi của Horace (I, 7, 31), đây là cách Teucrus nói với những người bạn đồng hành của mình, những người, sau khi trở về từ Chiến tranh thành Troy trở về hòn đảo quê hương Salamis của mình, lại bị lưu đày (xem “Ubi Bene, ibi patria”) .

Về rus! - Hỡi làng!

“Hỡi làng! Khi nào tôi sẽ gặp bạn! " - Horace thốt lên ("Satires", II, 6, 60), kể lại rằng, sau một ngày bận rộn ở Rome, khi phải quyết định một loạt việc trên đường đi, anh ấy đã cố gắng hết lòng đến một góc yên tĩnh - một bất động sản ở Núi Sabine, từ lâu đã là chủ đề trong giấc mơ của anh ta (xem "Hoc erat in votis") và được Maecenas - một người bạn của Hoàng đế Augustus - tặng anh ta. Người bảo trợ cũng giúp đỡ các nhà thơ khác (Virgil, Tỷ lệ), nhưng chính nhờ những bài thơ của Horace mà tên tuổi của ông trở nên nổi tiếng và bắt đầu biểu thị bất kỳ người bảo trợ nghệ thuật nào. Trong phần ngoại truyện đến chương thứ 2 của "Eugene Onegin" ("Ngôi làng nơi Eugene buồn chán là một góc đáng yêu ...") Pushkin đã sử dụng một cách chơi chữ: "O rus! Về nước Nga! "

Giới thiệu về sancta simplicitas! - Ôi sự giản dị thánh thiện!

Về sự ngây ngô, ngốc nghếch của một ai đó. Theo truyền thuyết, cụm từ này được nói ra bởi Jan Hus (1371-1415), nhà tư tưởng học của cuộc Cải cách nhà thờ ở Bohemia, khi bị thiêu cháy như một kẻ dị giáo, bởi phán quyết của Nhà thờ Constance Church, một số bà già ngoan đạo đã ném một bó củi vào đống lửa. Jan Hus thuyết giảng ở Praha; ông yêu cầu bình đẳng quyền của giáo dân với hàng giáo phẩm, gọi Chúa Kitô là người đứng đầu duy nhất của giáo hội, nguồn giáo lý duy nhất - Thánh Kinh, và một số giáo hoàng - dị giáo. Giáo hoàng đã triệu tập Hus đến Hội đồng để bày tỏ quan điểm của mình, hứa hẹn an ninh, nhưng sau đó, giam cầm và hành quyết anh ta trong 7 tháng, nói rằng anh ta đã không thực hiện những lời hứa với những kẻ dị giáo.

Khoảng thời gian tạm thời! về nhiều hơn nữa! - Về thời gian! về đạo đức!

Có lẽ biểu hiện nổi tiếng nhất từ ​​bài phát biểu đầu tiên của Cicero (lãnh sự năm 63 trước Công nguyên) chống lại kẻ chủ mưu-thượng nghị sĩ Catiline (I, 2), người được coi là đỉnh cao của nhà hùng biện La Mã. Tiết lộ chi tiết về âm mưu tại một cuộc họp của Thượng viện, Cicero trong đoạn này phẫn nộ với cả sự xấc xược của Catiline, kẻ dám xuất hiện ở Thượng viện như thể không có chuyện gì xảy ra, mặc dù ý định của anh ta đã được mọi người biết đến, và sự không hành động. của các nhà chức trách liên quan đến âm mưu tội phạm gây ra cái chết của Cộng hòa; trong khi ngày xưa người ta bị giết và ít nguy hiểm hơn cho nhà nước. Thông thường, cách diễn đạt được sử dụng, nói lên sự suy đồi của đạo đức, lên án cả một thế hệ, nhấn mạnh tính chất không thể nghe thấy của sự kiện.

Occidat, dum imperet. - Cứ để hắn giết, chỉ cần hắn trị vì.

Vì vậy, theo nhà sử học Tacitus (Biên niên sử, XIV, 9), Agrippina, cháu gái cố của Augustus, đã trả lời các nhà chiêm tinh, người đã tiên đoán rằng con trai bà là Nero sẽ trở thành hoàng đế, nhưng sẽ giết mẹ mình. Thật vậy, 11 năm sau, người phối ngẫu của Agrippina là chú của cô, Hoàng đế Claudius, người mà cô đã hạ độc 6 năm sau, vào năm 54 sau Công nguyên, truyền ngôi cho con trai mình. Sau đó, Agrippina trở thành một trong những nạn nhân bị hoàng đế độc ác nghi ngờ. Sau những nỗ lực đầu độc cô ấy không thành công, Nero đã dàn dựng một vụ đắm tàu; và khi biết rằng mẹ mình đã được cứu, anh ta đã ra lệnh đâm bà bằng một thanh kiếm (Suetonius, "Nero", 34). Một cái chết đau đớn đang chờ chính anh ta (xem "Qualis Artifex pereo").

Oderint, dum metuant. - Cứ để họ ghét, giá như họ sợ.

Biểu hiện thường đặc trưng cho quyền lực dựa trên sự sợ hãi của cấp dưới. Nguồn gốc là lời của vị vua tàn ác Atreus từ bi kịch cùng tên của nhà viết kịch La Mã Akzia (thế kỷ II-I trước Công nguyên). Theo Suetonius ("Gaius Caligula", 30 tuổi), hoàng đế Caligula (12-41 SCN) thích lặp lại chúng. Ngay từ khi còn là một đứa trẻ, người rất thích có mặt tại các cuộc tra tấn và hành quyết, cứ vào ngày thứ 10, hắn lại ký các bản án, yêu cầu thi hành án bằng những cú đánh nhỏ thường xuyên. Nỗi sợ hãi trong người lớn đến mức nhiều người không tin ngay tin tức về vụ giết hại Caligula là kết quả của một âm mưu, tin rằng chính ông đã tung ra những tin đồn này để tìm hiểu xem họ nghĩ gì về ông (Suetonius, 60 tuổi).

Oderint, dum probent. - Để họ ghét, chỉ để ủng hộ.

Theo Suetonius ("Tiberius", 59 tuổi), đây là những gì hoàng đế Tiberius (42 TCN - 37 SCN) đã nói khi đọc những câu thơ ẩn danh về sự tàn nhẫn của mình. Ngay từ thời thơ ấu, tính cách của Tiberius đã được xác định một cách sắc sảo bởi giáo viên hùng biện Theodore Gadarsky, người khi mắng mỏ, gọi anh là “bùn trộn với máu” (“Tiberius”, 57).

Odero, si potero. - Tôi ghét nó nếu tôi có thể.

Ovid ("Love Elegies", III, 11, 35) nói lên thái độ đối với cô bạn gái quỷ quyệt.

Od (i) et amo. - Tôi vừa ghét vừa yêu.

Từ câu nói nổi tiếng của Catullus về tình yêu và sự ghét bỏ (số 85): “Dù tôi ghét, tôi yêu. Tại sao? - có lẽ bạn sẽ hỏi. // Bản thân tôi cũng không hiểu, nhưng tự mình cảm nhận được điều đó, tôi sụp đổ ”(bản dịch của A. Fet). Có lẽ nhà thơ muốn nói rằng anh không còn cảm giác trân trọng, cao cả trước đây đối với người bạn gái chung thủy, nhưng anh không thể ngừng yêu cô ấy về thể xác và hận mình (hay cô ấy?) Vì điều này, nhận ra rằng anh đang phản bội chính mình, sự hiểu biết của anh về yêu quý. Việc hai cảm xúc trái ngược này hiện diện ngang nhau trong tâm hồn người anh hùng được nhấn mạnh bởi số lượng âm tiết bằng nhau trong các động từ Latinh "I hate" và "I love". Có lẽ vì vậy mà vẫn chưa có bản dịch tiếng Nga đầy đủ của bài thơ này.

Oleum et operam perdidi. - Tôi đã lãng phí dầu và sức lao động.

Đây là những gì một người có thể nói về bản thân đã lãng phí thời gian một cách vô ích, làm việc vô ích mà không nhận được kết quả như mong đợi. Câu tục ngữ được tìm thấy trong bộ phim hài Plautus "Puniyets" (I, 2, 332), trong đó cô gái, có hai người bạn đồng hành của chàng trai trẻ để ý và chào hỏi đầu tiên, thấy rằng cô ấy đã cố gắng vô ích, mặc quần áo và bôi dầu. Cicero đưa ra một cách diễn đạt tương tự, không chỉ nói về dầu để xức dầu ("Thư gửi những người thân yêu", VII, 1, 3), mà còn về dầu để chiếu sáng được sử dụng trong quá trình làm việc ("Những bức thư gửi Atticus", II, 17, 1) ... Chúng ta sẽ tìm thấy một tuyên bố tương tự trong cuốn tiểu thuyết của Petronius "Satyricon" (CXXXIV).

Mecum porto Omnia. - Tôi mang theo mọi thứ bên mình.

Nguồn - kể bởi Cicero ("Paradoxes", I, 1, truyền thuyết về Biante, một trong bảy nhà hiền triết Hy Lạp (thế kỷ VI trước Công nguyên). Trước lời kêu gọi làm điều tương tự, Biant trả lời rằng đây chính xác là những gì anh ta làm, bởi vì anh ta luôn mang trong mình sự giàu có đích thực, không thể chuyển nhượng của mình mà không cần đến thắt nút và túi xách - những thứ của cải của tâm hồn, của cải về trí óc., nhưng giờ đây từ Byant thường được sử dụng khi họ mang theo mọi thứ trong mọi dịp (vì ví dụ, tất cả các tài liệu của họ). Biểu thức cũng có thể cho biết mức thu nhập thấp.

Omnia mutantur, mutabantur, mutabuntur. - Mọi thứ đều thay đổi, đã thay đổi và sẽ thay đổi.

Omnia praeclara rara. - Cái gì đẹp cũng hiếm.

Cicero (Lelius, hay Friendship, XXI, 79) nói về việc khó khăn như thế nào để tìm được một người bạn thực sự. Do đó, những lời kết luận của Đạo đức học của Spinoza (V, 42): “Mọi thứ đẹp đẽ đều khó như hiếm” (về việc khó khăn như thế nào để giải phóng tâm hồn khỏi những định kiến ​​và ảnh hưởng). So sánh với câu ngạn ngữ Hy Lạp "Kala halepa" ("Đẹp thì khó"), trích trong đoạn đối thoại của Plato "Hippias the Great" (304e), bàn về bản chất của cái đẹp.

Omnia vincit tình yêu ,. - Tình yêu chinh phục mọi thứ,

Phiên bản viết tắt: "Amor omnia vincit" ("Tình yêu chinh phục tất cả"). So sánh: "Ít nhất cũng chết chìm, nhưng với một người yêu", "Tình yêu và cái chết không biết rào cản." Nguồn gốc của biểu thức là "Bucolics" của Virgil (X, 69).

Optima sunt Communia. - Điều tốt nhất thuộc về tất cả mọi người.

Seneca ("Moral Letters to Lucilius", 16, 7) nói rằng anh ta coi tất cả những suy nghĩ chân chính là của mình.

Thuốc tối ưu quies est. - Liều thuốc tốt nhất là hòa bình.

Mệnh lệnh thuộc về bác sĩ người La Mã Cornelius Celsus (Câu, V, 12).

Otia dant vitia. - Sự lười biếng sinh ra tệ nạn.

Hãy so sánh: “Lao động kiếm ăn, nhưng lười biếng làm hư hỏng”, “Từ nhàn rỗi, dại dột sinh lợi, trong lao động ý chí được tôi luyện”. Cũng với tuyên bố của chính khách La Mã và nhà văn Cato the Elder (234-149 TCN), trích dẫn bởi Columella, một nhà văn của thế kỷ thứ nhất. QUẢNG CÁO (“Về Nông nghiệp”, XI, 1, 26): “Không làm được gì thì người ta học hành xấu”.

otium kiêm chức sắc - giải trí xứng đáng (cống hiến cho văn học, nghệ thuật, khoa học)

Định nghĩa của Cicero ("Nhà hùng biện", 1,1, 1), người, sau khi nghỉ hưu khỏi các công việc của nhà nước, đã dành thời gian rảnh rỗi để viết.

Otium hậu thương lượng. - Nghỉ ngơi - sau khi kinh doanh.

Hãy so sánh: “Tôi đã làm được việc - hãy mạnh dạn bước đi”, “Kinh doanh là thời gian, vui vẻ là một giờ”.

Pacta sunt servanda. - Các thỏa thuận phải được tôn trọng.

Hãy so sánh: “Thỏa thuận đắt hơn tiền”.

Paete, không phải dolet. - Thú cưng, nó không đau (không có gì phải lo lắng).

Ví dụ, cụm từ được sử dụng, muốn thuyết phục một người thử một thứ gì đó chưa biết đối với anh ta, gây ra sự sợ hãi. Những lời nổi tiếng này của Arria, vợ của quan chấp chính Cecina Peta, người đã tham gia vào một âm mưu thất bại chống lại hoàng đế Claudius nhu nhược và độc ác (42 SCN), được trích dẫn bởi Pliny the Younger (Letters, III, 16, 6). Âm mưu bị phát hiện, người tổ chức nó là Scribonian bị xử tử. Pet, bị kết án tử hình, phải tự sát trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng không thể quyết định. Và một ngày nọ, vợ anh ta, vì bị thuyết phục, đã dùng dao găm của chồng đâm vào người mình, bằng những lời lẽ này, anh ta đã đưa anh ta ra khỏi vết thương và đưa nó cho Peta.

Pallet: aut amat, aut Studet. - Nhạt: hoặc đang yêu, hoặc đang học.

Tục ngữ thời trung đại.

pallida morte futura - nhợt nhạt khi đối mặt với cái chết (nhợt nhạt như chết)

Virgil (Aeneid, IV, 645) kể về nữ hoàng Dido của người Carthage, bị Aeneas bỏ rơi, người đã quyết định tự sát trong cơn điên loạn. Xanh xao, với đôi mắt đỏ ngầu, cô chạy qua cung điện. Người anh hùng rời Dido theo lệnh của Jupiter (xem "Naviget, haec summa (e) sl"), khi nhìn thấy ánh sáng rực rỡ của giàn hỏa táng từ boong tàu, cảm thấy rằng điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra (V, 4-7) .

Panem et Circenses! - Bữa ăn thực sự!

Thông thường, nó đặc trưng cho những mong muốn hạn chế của cư dân, những người không quan tâm đến những vấn đề nghiêm trọng trong đời sống của đất nước. Trong câu cảm thán này, nhà thơ Juvenal (Satires, X, 81) đã phản ánh nhu cầu cơ bản của đám ngu dân La Mã nhàn rỗi trong thời đại của Đế chế. Cam chịu mất các quyền chính trị, người dân nghèo bằng lòng với những phát tay mà các chức sắc đạt được trong dân chúng - phân phát bánh mì miễn phí và tổ chức các buổi biểu diễn xiếc miễn phí (đua xe ngựa, đấu sĩ), các cuộc đấu trang phục. Mỗi ngày, theo luật năm 73 trước Công nguyên, những công dân nghèo của La Mã (thế kỷ 1 - 2 sau Công nguyên có khoảng 200.000 người) được nhận 1,5 kg bánh mì mỗi người; rồi họ cũng giới thiệu việc phân phát bơ, thịt, tiền.

Parvi liberi, parvum maluni. - Con nhỏ - rắc rối nhỏ.

So sánh: “Con to - lớn và xấu”, “Với con nhỏ đau buồn, và với con lớn - gấp đôi”, “Con nhỏ bú vú mẹ, con lớn - tấm lòng”, “Con nhỏ không cho mẹ. ngủ, nhưng một giấc ngủ lớn - để sống "...

Parvum parva đàng hoàng. - Nhỏ vào mặt.

Horace (Epistles, I, 7, 44), đề cập đến người bảo trợ và người bạn của mình là Maecenas, người mà sau này trở thành tên hộ gia đình, nói rằng anh ấy khá hài lòng với bất động sản của mình ở dãy núi Sabine (xem Hoc erat trong votis) và anh ấy đang không thu hút cuộc sống ở thủ đô.

Pauper ubique jacet. - Người nghèo bị đánh bại khắp nơi.

So sánh: "Tất cả sởn da gà đổ lên người Makar tội nghiệp", "Người đàn ông tội nghiệp, anh ta hút một chiếc lư hương." Từ bài thơ "Fasty" của Ovid (I, 218).

Pecunia nervus belli. - Tiền là thần kinh (động lực) của chiến tranh.

Biểu thức được tìm thấy trong Cicero ("Phi-líp", V, 2, 6).

Xin chào, thủ lĩnh Achivi. - Các vị vua phạm tội, nhưng người Achaeans (Hy Lạp) phải chịu đựng.

Hãy so sánh: "Các quán bar đang đánh nhau, nhưng các cơ sở của muzhiks đang rạn nứt." Nó dựa trên những lời của Horace ("Epistles", I, 2, 14), kể về việc anh hùng Hy Lạp Achilles, bị vua Agamemnon xúc phạm (xem "inutile terrae aous"), đã từ chối tham gia vào cuộc Chiến tranh thành Troy, dẫn đầu để đánh bại và giết nhiều Achaeans.

Pecunia non olet. - Tiền không có mùi.

Nói cách khác, tiền luôn là tiền, bất kể nguồn gốc xuất xứ của nó là gì. Theo Suetonius ("Thần thánh Vespasian", 23), khi hoàng đế Vespasian đánh thuế nhà vệ sinh công cộng, con trai ông là Titus bắt đầu trách móc cha mình. Vespasian nâng một đồng xu từ khoản lãi đầu tiên lên mũi con trai mình và hỏi nó có mùi không. “Không phải olet,” Titus trả lời.

Theo aspera ad astra. - Trải qua bao gian nan (khó khăn) đến các vì sao.

Một lời kêu gọi để đi đến mục tiêu, vượt qua mọi trở ngại trên đường đi. Theo thứ tự ngược lại: "Ad astra per aspera" là phương châm của Bang Kansas.

Pereat mundus, fiat justitia! - Hãy để thế giới diệt vong, nhưng sẽ có (được thực hiện) công lý!

"Fiat justitia, pereat mundus" ("Cầu mong công lý được thực hiện và cầu mong thế giới diệt vong") là phương châm của Ferdinand I, Hoàng đế (1556-1564) của Đế chế La Mã Thần thánh, thể hiện mong muốn khôi phục lại công lý bằng bất cứ giá nào. Biểu thức thường được trích dẫn với từ cuối cùng được thay thế.

Chương trình giảng dạy trong mora. - Nguy hiểm đang chậm trễ. (Sự trì hoãn giống như cái chết.)

Titus Livy ("Lịch sử thành Rome từ khi thành lập thành phố", XXXVIII, 25, 13) nói về việc người La Mã bị quân Gaul chèn ép, họ đã bỏ chạy, thấy rằng không thể chần chừ thêm nữa.

Plaudite, cives! - Vỗ tay, các công dân!

Một trong những lời kết của các diễn viên La Mã với khán giả (xem thêm Valete et plaudite). Theo Suetonius ("Thần Augustus", 99), trước khi qua đời, hoàng đế Augustus đã yêu cầu (bằng tiếng Hy Lạp) những người bạn bước vào vỗ tay xem, theo ý kiến ​​của họ, ông có đóng tốt vở hài kịch cuộc đời hay không.

Plenus venter non SofaScoret libenter. - Bụng đầy thì điếc không học được.

plus sonat, quam valet - I ring nhiều hơn ý nghĩa (nhẫn nhiều hơn trọng lượng)

Seneca (Moral Letters to Lucilius, 40, 5) nói về các bài phát biểu của các nhà thuyết phục.

Poete nascuntur, oratores fiunt. - Nhà thơ được sinh ra, và họ trở thành nhà hùng biện.

Nó dựa trên những từ trong bài phát biểu của Cicero "Trong sự bảo vệ của nhà thơ Aulus Licinius Archias" (8, 18).

thăm dò ý kiến ​​so với - với một ngón tay xoắn (kết thúc nó!)

Xoay ngón cái của bàn tay phải xuống ngực, khán giả quyết định số phận của đấu sĩ bị đánh bại: người chiến thắng, người nhận được một bát tiền vàng từ ban tổ chức trò chơi, phải kết liễu anh ta. Biểu thức được tìm thấy trong Juvenal ("Satires", III, 36-37).

Populus khắc phục hậu quả cupit. - Người ta thèm thuốc.

Câu nói của Galen, thầy thuốc riêng của hoàng đế Marcus Aurelius (trị vì 161-180), con rể đồng trị vì Vera và con trai của Commodus.

Đăng nubila sol. - Sau khi thời tiết xấu - mặt trời.

So sánh: "Không phải tất cả thời tiết xấu, sẽ có một mặt trời đỏ." Nó dựa trên một bài thơ của nhà thơ Novolatinsk Alan của Lille (thế kỷ XII): “Sau những đám mây đen, mặt trời bình thường dễ chịu hơn đối với chúng ta; // như vậy tình yêu sau những lần cãi vã sẽ có vẻ tươi sáng hơn ”(bản dịch của người viết). So sánh với phương châm Giơ-ne-vơ: "Post tenebras lux" ("Sau bóng tối - ánh sáng").

Primum vivere, deinde Philosophari. - Đầu tiên để sống, và chỉ sau đó để triết học.

Một lời kêu gọi hãy trải nghiệm và trải nghiệm thật nhiều trước khi nghĩ đến cuộc sống. Trong miệng của một người gắn liền với khoa học, có nghĩa là anh ta không xa lạ với những niềm vui của cuộc sống hàng ngày.

Primus inter pares - đầu tiên trong số các giá trị tương đương

Trên địa vị của quân chủ trong nhà nước phong kiến. Công thức quay trở lại thời kỳ của hoàng đế Augustus, người lo sợ số phận của người tiền nhiệm Julius Caesar (ông ta đã quá rõ ràng để tranh giành quyền lực duy nhất và bị giết vào năm 44 trước Công nguyên, hãy xem bài báo "Et tu, Brute! "), vẫn giữ được vẻ vang của cộng hòa và tự do, tự gọi mình là primus inter pares (vì tên của ông ở vị trí đầu tiên trong danh sách thượng nghị sĩ), hoặc Princeps (tức là công dân đầu tiên). Do đó, được thành lập bởi Augustus vào năm 27 trước Công nguyên. hình thức chính phủ, khi tất cả các thể chế cộng hòa (viện nguyên lão, cơ quan dân cử, hội đồng dân chúng) được giữ lại, nhưng trên thực tế quyền lực thuộc về một người, được gọi là nguyên thủ.

Prior tempore - potior jure. - Lần đầu tiên trong thời gian - người đầu tiên ở bên phải.

Một quy tắc pháp lý được gọi là chủ sở hữu đầu tiên (first take). Hãy so sánh: “Người chín mùi đã ăn”.

pro suggest et focis - cho bàn thờ và lò sưởi

Nói cách khác, để bảo vệ tất cả những gì quý giá nhất. Tìm thấy trong Titus Livy ("Lịch sử của Rome từ khi thành lập thành phố", IX, 12, 6).

Procul ab oculis, procul ex mente. - Xa mặt cách lòng.

Procul, profani! - Biến đi, người chưa quen!

Thông thường, đây là lời kêu gọi đừng phán xét những điều bạn không hiểu. Epigraph cho bài thơ “Nhà thơ và đám đông” của Pushkin (1828). Trong Virgil ("Aeneid", VI, 259), nữ tiên tri Sibyl kêu lên, nghe thấy tiếng hú của những con chó - một dấu hiệu cho thấy nữ thần Hecate, tình nhân của bóng tối đang đến gần: "Hãy rời xa những điều bí ẩn, tránh xa! Rời khỏi lùm xùm ngay lập tức! " (trans. S. Osherov). Người tiên kiến ​​đã xua đuổi những người bạn đồng hành của Aeneas, người đến gặp cô để tìm cách đi xuống vương quốc của người chết và gặp lại cha mình ở đó. Bản thân người anh hùng đã được bắt đầu vào bí ẩn của những gì đang xảy ra nhờ vào cành vàng anh ta hái trong rừng cho tình nhân của thế giới ngầm, Proserpina (Persephone).

Proserpina nullum caput fugit. - Proserpine (cái chết) không phụ lòng ai.

Nó dựa trên những lời của Horace ("Odes", I, 28, 19-20). Đối với Proserpine, hãy xem bài viết trước.

Pulchra res homo est, si homo est. - Một người đẹp nếu anh ta là một người.

So sánh trong bi kịch của Sophocles "Antigone" (340-341): "Có rất nhiều điều kỳ diệu trên thế giới, // con người tuyệt vời hơn tất cả" (bản dịch của S. Shervinsky và N. Poznyakov). Trong nguyên bản tiếng Hy Lạp, định nghĩa là "dainos" (khủng khiếp nhưng tuyệt vời). Vấn đề là những thế lực to lớn ẩn chứa trong một người, với sự giúp đỡ của họ, bạn có thể làm việc thiện hay việc ác, tất cả đều phụ thuộc vào bản thân người đó.

Qualis Artifex pereo! - Nghệ sĩ gì mà chết!

Về một thứ gì đó có giá trị, không được sử dụng cho mục đích đã định, hoặc về một người mà bản thân chưa nhận ra. Theo Suetonius (Nero, 49 tuổi), những lời này đã được lặp lại trước khi ông qua đời (68 sau Công nguyên) bởi hoàng đế Nero, người tự coi mình là một ca sĩ bi kịch lớn và thích biểu diễn trong các nhà hát ở La Mã và Hy Lạp. Thượng viện tuyên bố anh ta là kẻ thù và đang tìm cách hành quyết theo phong tục của tổ tiên họ (họ dùng giày ghim chặt đầu tên tội phạm và đánh chết hắn), nhưng Nero vẫn do dự chia tay cuộc đời của hắn. Anh ta ra lệnh đào một ngôi mộ, rồi mang nước và củi đến, tất cả đều cảm thán rằng một nghệ sĩ vĩ đại đang chết dần chết mòn trong anh ta. Chỉ khi nghe thấy sự tiếp cận của các kỵ sĩ, những người được hướng dẫn để bắt sống anh ta, Nero, với sự giúp đỡ của Phaon, người được giải thoát, đâm một thanh kiếm vào cổ họng anh ta.

Qualis pater, talis filius. - Cái gì là cha, cái gì là đồng bọn. (Thế nào là cha, thế là con trai.)

Qualis rex, talis grex. - Thế nào là vua, thế nào là dân (tức là linh mục, giáo xứ là gì).

Qualis vir, talis hoặc địa chỉ trường nằm. - Chồng (người) là gì, phát ngôn như vậy.

Từ châm ngôn của Publius Sira (số 848): "Lời nói là sự phản ánh của tâm trí: như một người chồng, đó là lời nói." Hãy so sánh: "Biết một con chim bằng lông của nó, và một người đồng loại tốt qua những bài phát biểu của nó", "Linh mục là gì, đó là lời cầu nguyện của anh ta."

Qualis vita, et mors ita. - Sống là gì, chết là như vậy.

So sánh: “Con chó chết là con chó”.

Quandoque thưởng ký túc xá Homerus. - Đôi khi Homer vinh quang đang ngủ say (nhầm lẫn).

Horace (Khoa học về thơ, 359) nói rằng ngay cả trong các bài thơ của Homer cũng có những điểm yếu. So sánh: "Và có những đốm sáng trong mặt trời."

Qui amat me, amat et canem meum. “Ai yêu tôi cũng thương con chó của tôi.

Qui canit arte, canat ,! - Ai biết hát thì để người ấy hát!

Ovid (Science of Love, II, 506) khuyên người yêu nên bộc lộ hết tài năng của mình với bạn gái.

Qui Bene amat, Bene castigat. - Ai yêu thật lòng, chân thành (từ tâm) thì phạt.

So sánh: “Anh yêu như linh hồn, mà rung rinh như lê”. Cũng trong Kinh Thánh (Châm-ngôn của Sa-lô-môn, 3, 12): “Chúa yêu ai thì sửa phạt, và vui theo cách của người cha đối với con mình”.

Qui multum habet, cộng với cupit. - Ai có nhiều thì muốn nhiều hơn.

Hãy so sánh: “Ăn cho ai, nhường nào cho nhiều hơn”, “Thèm ăn đi kèm với ăn”, “Ăn càng nhiều, càng muốn”. Biểu thức này được tìm thấy trong Seneca (Moral Letters to Lucilius, 119, 6).

Qui non zelat, pop amat. - Ai không ghen thì không yêu.

Qui scribit, bis hợp pháp. - Ai viết, người đó đọc hai lần.

Qui terret, cộng với thời gian ipse. - Những người khơi dậy nỗi sợ hãi lại càng sợ hãi chính họ.

Qui totum vult, totum perdit. - Ai muốn tất cả thì mất tất cả.

Quia nominor leo. - Vì tên tôi là sư tử.

Về quyền của kẻ mạnh và có ảnh hưởng. Trong truyện ngụ ngôn của Phaedrus (I, 5, 7), một con sư tử đi săn cùng bò, dê và cừu, đã giải thích cho họ lý do tại sao nó lại lấy phần tư con mồi đầu tiên (nó lấy phần tư thứ hai để được giúp đỡ, phần thứ ba vì mạnh hơn, và anh ấy cấm thậm chí chạm vào thứ tư).

Quid est veritas? - Sự thật là gì?

Trong Phúc âm Giăng (18:38), đây là câu hỏi nổi tiếng mà Pontius Pilate, kiểm sát viên của tỉnh Judea, La Mã, đã hỏi Chúa Giê-su đưa ra trước mặt ngài để xét xử để đáp lại lời Ngài: “Vì điều này, tôi đã được sinh ra và vì điều này. Tôi đến thế gian để làm chứng về lẽ thật; ai thuộc lẽ thật thì nghe tiếng Ta ”(Giăng 18:37).

Quid opus nota noscere? - Tại sao phải kiểm tra thử nghiệm?

Plautus ("Chiến binh kiêu hãnh", II, 1) nói về sự nghi ngờ quá mức đối với những người có uy tín.

Đĩa mực, đĩa tibi. - Dù bạn học gì thì bạn cũng tự học.

Biểu thức được tìm thấy trong Petronius ("Satyricon", XLVI).

Quidquid latet, apparebit. - Tất cả bí mật sẽ được bật mí.

Từ bài thánh ca Công giáo "Dies irae" ("Ngày Phẫn nộ"), nói về ngày Phán quyết cuối cùng sắp tới. Cơ sở của cách diễn đạt, rõ ràng, là những lời từ Phúc âm Mác (4, 22; hoặc từ Lu-ca, 8, 17): “Vì không có điều gì bí mật không trở nên rõ ràng, cũng không bí mật mà không được biết đến. và không bị phát hiện sẽ ”.

legiones đỏ. - mang quân đoàn trở lại.

Hối tiếc về sự mất mát không thể bù đắp hoặc lời kêu gọi trả lại thứ gì đó thuộc về bạn (đôi khi họ chỉ nói "Legiones redde"). Theo Suetonius (Thần thánh Augustus, 23 tuổi), đây là cách mà hoàng đế Augustus liên tục kêu lên sau thất bại tan nát của người La Mã dưới sự chỉ huy của Quintilius Varus từ quân Đức trong Rừng Teutoburg (9 SCN), nơi ba quân đoàn bị tiêu diệt. Khi biết chuyện không may, August đã không cắt tóc và râu trong nhiều tháng liền, và hàng năm ông đều tổ chức lễ kỷ niệm ngày thất trận với tang tóc. Cách diễn đạt được đưa ra trong "Kinh nghiệm" của Montaigne: trong chương này (Quyển I, Chương 4) chúng ta đang nói về sự thiếu khoan dung của con người đáng bị lên án.

Định lý quis Bene celat? - Ai là người giấu kín tình yêu thành công?

So sánh: “Tình như tiếng ho: giấu người không được”. Nó được Ovid ("Heroids", XII, 37) đưa ra trong bức thư tình của phù thủy Medea gửi cho chồng mình là Jason. Cô nhớ lại lần đầu tiên cô nhìn thấy một người lạ xinh đẹp đến trên con tàu "Argo" để lấy bộ lông cừu vàng - da của một con cừu đực vàng, và Jason ngay lập tức cảm nhận được tình yêu của Medea dành cho mình như thế nào.

Vì vậy, nói về satyrs (I, 2) của ông ở Ba Tư, một trong những khó khăn nhất đối với nhận thức của các tác giả La Mã, cho rằng đối với nhà thơ, ý kiến ​​riêng của anh ta quan trọng hơn sự công nhận của độc giả.

Quo vadis? - Camo đến? (Bạn đi đâu?)

Theo truyền thống của nhà thờ, trong cuộc đàn áp các Cơ đốc nhân ở La Mã dưới thời hoàng đế Nero (c. 65), Sứ đồ Phi-e-rơ quyết định rời bỏ bầy chiên của mình và tìm cho mình một nơi ở mới cho cuộc sống và việc làm. Khi rời thành phố, ông đã nhìn thấy Chúa Giê-su trên đường đến Rô-ma. Đáp lại câu hỏi: “Quo vadis, Domine? "(" Chúa đi đâu vậy? ") - Chúa Giê-su Christ nói rằng ngài sẽ đến Rôma để chết một lần nữa cho một dân tộc bị tước mất một người chăn cừu. Phi-e-rơ trở về Rô-ma và bị xử tử cùng với sứ đồ Phao-lô, người bị bắt tại Giê-ru-sa-lem. Cho rằng mình không đáng được chết như Chúa Giê-su, nên anh ta yêu cầu được đóng đinh với đầu mình. Với câu hỏi "Quo vadis, Domine?" trong Phúc âm Giăng, các sứ đồ Phi-e-rơ (13, 36) và Tôma (14, 5) hướng về Đấng Christ trong Bữa Tiệc Ly.

Quod dubitas, ne feceris. - Bất cứ điều gì bạn nghi ngờ, đừng.

Biểu thức được tìm thấy trong Pliny the Younger ("Những bức thư", I, 18, 5). Cicero cũng nói về điều tương tự ("Làm nhiệm vụ", I, 9, 30).

Trích dẫn chí, ingratum (e) st. - Cho phép không thu hút.

Trong bài thơ của Ovid ("Love Elegies", II, 19, 3), người tình yêu cầu chồng phải trông chừng vợ mình, nếu chỉ vì lợi ích của người kia đang cháy bỏng với cô ấy: sau cùng, "không có hương vị gì trong những gì được phép, sự cấm đoán càng kích thích sâu sắc hơn ”(bản dịch của S. Shervinsky).

Trích dẫn chí Jovi, không viết tắt tiếng Anh. - Những gì được phép đối với sao Mộc không được phép đối với con bò.

So sánh: "Đó là kinh doanh cho hegumen, nhưng cho anh em - vì lợi ích!"

Quod petis, est nusquam. “Những gì bạn khao khát không đâu vào đâu.

Ovid trong bài thơ "Metamorphoses" (III, 433) đề cập đến chàng trai xinh đẹp Narcissus. Từ chối tình yêu của các tiên nữ, anh ta bị nữ thần quả báo trừng phạt vì điều này, anh ta đã yêu thứ mà anh ta không thể sở hữu - hình ảnh phản chiếu của chính anh ta trong dòng nước của cội nguồn (kể từ đó một người tự yêu được gọi là một người tự ái).

Trích dẫn scripsi, scripsi. - Những gì tôi viết, tôi đã viết.

Thông thường, đây là sự từ chối mang tính phân loại để sửa chữa hoặc làm lại công việc của bạn. Theo Phúc âm John (19, 22), đây là cách viên kiểm sát La Mã Pontius Pilate trả lời các thượng tế Do Thái, những người nhấn mạnh rằng trên cây thập tự nơi Chúa Jesus bị đóng đinh, thay vì dòng chữ "Jesus of Nazareth, King of the Do Thái. ”Được thực hiện theo lệnh của Philatô (tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh - 19, 19), có ghi“ Ông nói: “Ta là Vua dân Do Thái” (19, 21).

Quod uni dixeris, omnibus dixeris. - Những gì bạn nói với một, bạn nói với tất cả mọi người.

Quos cái tôi! - Tôi đây! (Chà, tôi sẽ chỉ cho bạn!)

Trong Virgil ("Aeneid", 1.135), đây là những lời của thần Neptune, nói về những cơn gió, làm xáo trộn biển cả mà ông không hề hay biết, để đập vỡ những con tàu của Aeneas (tổ tiên thần thoại của người La Mã) trên đá, do đó làm cho một dịch vụ bất lợi cho anh hùng Juno, vợ của Jupiter.

Quot homines, tot sententiae. - Bao nhiêu người, bấy nhiêu ý kiến.

Hãy so sánh: “Một trăm cái đầu, một trăm bộ óc”, “Tâm không nghĩ tới”, “Mỗi người đều có một bộ óc của riêng mình” (Grigory Skovoroda). Cụm từ này được tìm thấy trong vở hài kịch Terence "Formion" (II, 4, 454), ở Cicero ("Về ranh giới của thiện và ác", I, 5, 15).

Xin chào. - Để làm - nên làm,

Rem tene, verba sequentur. - Nắm vững bản chất (nắm vững bản chất), và các từ sẽ được tìm thấy.

Lời nói của người nói và chính trị gia của thế kỷ thứ 2 được trích dẫn trong sách giáo khoa về tu từ học sau này. BC. Cato the Elder. So sánh với Horace ("Khoa học về thi ca", 311): "Và nếu chủ đề trở nên rõ ràng, các từ sẽ được tìm thấy một cách dễ dàng" (M. Gasparov dịch). Umberto Eco ("The Name of the Rose". - Moscow: Book Chamber, 1989. - Tr. 438) nói rằng nếu anh ta phải học mọi thứ về một tu viện thời trung cổ để viết một cuốn tiểu thuyết, thì nguyên tắc "Verba tene, res sequentur "có hiệu lực trong thơ (" Nắm vững các từ và các đối tượng sẽ được tìm thấy ").

Sự lặp lại là mẹ của việc học.

Requiem aeternam. - Hòa bình vĩnh cửu.

Khởi đầu của thánh lễ an táng Công giáo, mà từ đầu tiên (Requiem - yên nghỉ) đã đặt tên cho nhiều tác phẩm âm nhạc được viết bằng lời của cô; trong số này, nổi tiếng nhất là các tác phẩm của Mozart và Verdi. Bộ và thứ tự của các văn bản cầu được thiết lập cuối cùng vào thế kỷ thứ XIV. theo nghi thức La Mã và được chấp thuận tại Hội đồng Trent (kết thúc vào năm 1563), trong đó cấm sử dụng các văn bản thay thế.

Yêu cầu tốc độ. (R.I.P.) - Cầu mong anh ấy yên nghỉ,

Nói cách khác, hòa bình sẽ đến với anh ấy (cô ấy). Cụm từ cuối cùng của lời cầu nguyện tang lễ Công giáo và một văn bia chung. Tội nhân và kẻ thù có thể được giải quyết bằng câu nhại "Requiescat in pice" - "Cầu mong anh ta yên nghỉ (cầu anh ta yên nghỉ) trong nhựa thông."

Res ipsa loquitur.-Mọi thứ tự nó nói.

Hãy so sánh: “Sản phẩm tốt tự khen ngợi mình”, “Miếng ngon sẽ tìm đến cái bẫy”.

Res, không verba. - hành động, không phải lời nói.

Res sacra keo kiệt. - Người bất hạnh là một nguyên nhân thiêng liêng.

Một dòng chữ về việc xây dựng một xã hội từ thiện trước đây ở Warsaw.

Roma locuta, causa finita. - Rome đã lên tiếng, vụ án đã kết thúc.

Thông thường, đây là sự thừa nhận quyền của một người nào đó là người có thẩm quyền chính trong lĩnh vực này và quyết định kết quả của vụ việc theo ý kiến ​​của họ. Câu mở đầu của con bò tót năm 416, nơi Giáo hoàng Innocent phê chuẩn quyết định của Thượng hội đồng Carthaginian về việc tuyệt thông những kẻ chống đối Chân phước Augustine (354-430), một triết gia và nhà thần học. Sau đó, những lời này đã trở thành một công thức ("giáo hoàng đã đưa ra quyết định cuối cùng của mình").

Saepe stilum vertas. - Biến kiểu thường xuyên hơn.

Kiểu (stylos) là một cây gậy, với đầu nhọn mà người La Mã viết trên các viên sáp (xem "tabula rasa"), và đầu còn lại, dưới dạng thìa, họ xóa những gì đã viết. Horace ("Satires", I, 10, 73) với cụm từ này kêu gọi các nhà thơ hoàn thành tác phẩm của mình một cách cẩn thận.

Salus phổ biến suprema lex. - Quyền lợi của người dân là quy luật cao nhất.

Biểu thức được tìm thấy trong Cicero ("Về luật", III, 3, 8). "Salus Populari suprema lex esto" ("Quyền lợi của người dân là luật tối cao") là phương châm của bang Missouri.

Sapere thử giọng. - Phấn đấu khôn ngoan (thường là: phấn đấu vì kiến ​​thức, dám hiểu biết).

Horace ("Tin nhắn", I, 2, 40) nói lên mong muốn sắp xếp hợp lý cuộc sống của bạn.

Sapienti ngồi. - Đủ thông minh.

So sánh: “Thông minh: pauca” - “Đối với người không hiểu nhiều” (người trí thức là người hiểu biết), “Người thông minh sẽ hiểu trong nháy mắt”. Ví dụ, tìm thấy trong vở hài kịch Terence "Formion" (III, 3, 541). Người thanh niên hướng dẫn một nô lệ lém lỉnh cách lấy tiền và khi được hỏi lấy tiền ở đâu, anh ta trả lời: “Cha ở đây. - Tôi biết. Gì? “Nó đủ cho một người thông minh” (bản dịch của A. Artyushkov).

Sapientia gubernator navis. - Trí tuệ là người cầm lái con tàu.

Được trích dẫn trong bộ sưu tập các câu cách ngôn do Erasmus ở Rotterdam biên soạn ("Adagia", V, 1, 63), có liên quan đến Titinius, diễn viên hài người La Mã ở thế kỷ thứ 2. BC. (Đoạn số 127): "Người phi công điều khiển con tàu bằng trí tuệ chứ không phải sức mạnh." Con tàu từ lâu đã được coi là biểu tượng của nhà nước, như có thể thấy trong bài thơ của nhà thơ trữ tình Hy Lạp Alcaeus (thế kỷ VII-VI trước Công nguyên) với mật danh "New Val".

Sapientis est mutare consilium. - Người khôn ngoan có xu hướng thay đổi suy nghĩ của họ.

Thỏa mãn vixi vel vitae vel gloriae. - Tôi đã sống đủ lâu cho cuộc sống và danh vọng.

Cicero ("On the Return of Mark Claudius Marcellus", 8, 25) trích dẫn những lời này của Caesar, nói với anh ta rằng anh ta đã không đủ sống cho quê cha đất tổ, nơi đã trải qua các cuộc nội chiến, và một mình anh ta có thể chữa lành vết thương của nó.

Khoa học giáo có sức mạnh. - Kiên thức là sức mạnh.

So sánh: "Không có khoa học - như không có bàn tay." Nó dựa trên tuyên bố của nhà triết học người Anh Francis Bacon (1561-1626) về sự đồng nhất của tri thức và sức mạnh của con người đối với tự nhiên ("New Organon", I, 3): khoa học tự nó không phải là sự kết thúc, mà là một nghĩa là tăng sức mạnh này. NS

cio me nihil scire. “Tôi biết tôi không biết gì cả.

Bản dịch tiếng Latinh những lời nổi tiếng của Socrates, được trích dẫn bởi học trò của ông là Plato (Lời xin lỗi của Socrates, 21 d). Khi nhà tiên tri Delphic (nhà tiên tri của đền thờ Apollo ở Delphi) gọi Socrates là người khôn ngoan nhất trong số những người Hy Lạp (Hy Lạp), ông đã rất ngạc nhiên, vì ông tin rằng mình không biết gì cả. Nhưng sau đó, bắt đầu nói chuyện với những người đảm bảo rằng họ biết rất nhiều, và hỏi họ những điều quan trọng nhất và thoạt nhìn, những câu hỏi đơn giản (đức, đẹp là gì), anh nhận ra rằng, không giống như những người khác, anh biết ít nhất. mà không biết gì cả. Hãy so sánh với Sứ đồ Phao-lô (Cô-rinh-tô, I, 8, 2): “Ai tưởng rằng mình biết điều gì, thì vẫn không biết điều mình nên biết”.

Semper avarus eget. - Kẻ keo kiệt luôn cần.

Horace ("Thông điệp", I, 2, 56) khuyên bạn nên kiềm chế ham muốn của mình: "Kẻ tham lam luôn thiếu thốn - vì vậy hãy đặt giới hạn cho dục vọng" (N. Gintsburg dịch). Hãy so sánh: “Người giàu keo kiệt nghèo hơn kẻ ăn mày”, “Không phải kẻ nghèo mà có ít, mà là kẻ muốn nhiều”, “Không phải kẻ nghèo mà là kẻ đi cào bằng”, “Không chó có ăn bao nhiêu cũng không đủ, nhưng ăn no đến mức nào ”,“ Không thể lấp đầy thùng không đáy, không thể nuôi một cái bụng tham ăn ”. Cũng trong Sallust ("Về âm mưu của Catalina", 11, 3): "Lòng tham không giảm đi từ giàu có hay nghèo đói." Hay Publius Cyrus (Câu đối, số 320): “Nghèo khó thiếu gì, tham lam thiếu gì”.

semper idem; semper eadem - luôn luôn như vậy; luôn luôn giống nhau (giống nhau)

“Semper idem” có thể được xem như một lời kêu gọi hãy giữ vững tâm lý an tâm trong mọi tình huống, đừng để mất thể diện, hãy luôn là chính mình. Cicero trong chuyên luận "Về nhiệm vụ" (I, 26, 90) nói rằng chỉ những người tầm thường mới không biết thước đo dù là buồn hay vui: xét cho cùng, trong mọi hoàn cảnh, tốt hơn là nên có "một nhân vật đồng đều, luôn luôn là cùng một biểu cảm trên khuôn mặt ”(làn của V. Gorenshtein). Như Cicero nói trong "Các cuộc trò chuyện của Tuskulan" (III, 15, 31), đây chính xác là những gì Socrates: người vợ hay cãi vã của Xanthippus đã mắng nhà triết học chính xác vì biểu hiện của ông không thay đổi, "bởi vì tinh thần của ông, in sâu trên khuôn mặt của ông, đã làm. không biết thay đổi ”(Bản dịch của M. Gasparov).

Senectus ipsa morbus.-Tuổi già tự nó là một căn bệnh.

Nguồn gốc là bộ phim hài của Terence "Formion" (IV, 1, 574-575), nơi Hremet giải thích cho anh trai của mình tại sao anh ta lại chậm đến thăm vợ và con gái của mình, người vẫn ở trên đảo Lemnos, rằng khi anh ta cuối cùng đã đến đó. , anh phát hiện ra rằng chính họ từ lâu họ đã đến gặp anh ở Athens: "Tôi đã bị giam giữ bởi một căn bệnh." - "Gì? Cái nào? " - “Đây là một câu hỏi khác! Và tuổi già không phải là một căn bệnh? " (Dịch bởi A. Artyushkov)

Seniores priores. - Ưu điểm cao cấp.

Ví dụ, bạn có thể nói như vậy, bỏ qua cái cũ hơn về phía trước.

Sero venientibus ossa. - Xương đến muộn.

Lời chào đến những vị khách đến muộn từ người La Mã (câu nói còn được gọi là "Tarde venientibus ossa"). So sánh: “Khách cuối ăn khúc xương”, “Khách muộn - khúc xương”, “Người về muộn uống nước”.

Si felix esse vis, esto. - Nếu bạn muốn hạnh phúc, hãy.

Tương tự trong tiếng Latinh của câu cách ngôn nổi tiếng của Kozma Prutkov (tên này là một chiếc mặt nạ văn học do A.K. Tolstoy và anh em nhà Zhemchuzhnikov tạo ra; đây là cách họ ký tên vào các tác phẩm châm biếm của mình trong những năm 1850-1860).

Si gravis, brevis, si longus, levis. - Nếu nặng thì ngắn, dài thì nhẹ.

Những lời này của triết gia Hy Lạp Epicurus, một người rất ốm yếu và coi điều tốt đẹp nhất là khoái lạc, được ông hiểu là không còn đau đớn, được trích dẫn và phản bác bởi Cicero ("Về ranh giới của thiện và ác", II (29, 94). Ông nói, những căn bệnh cực kỳ nghiêm trọng cũng có thể kéo dài và cách duy nhất để chống lại chúng là lòng dũng cảm, không cho phép sự hèn nhát. Biểu hiện của Epicurus, vì nó không rõ ràng (thường được trích dẫn mà không có từ dolor - đau đớn), cũng có thể được cho là do lời nói của con người. Nó sẽ thành ra: "Nếu trọng lượng, thì ngắn, nếu dài (tiết), thì phù phiếm."

Si judicas, cognosce. - Nếu bạn đánh giá, hãy tìm ra (lắng nghe),

Trong bi kịch của Seneca "Medea" (II, 194), đây là những lời của nhân vật chính, nói với vua của Corinth, Creon, người mà con gái Jason sắp cưới - chồng của Medea, người mà cô đã từng phản bội cha mình ( cô đã giúp Argonauts lấy đi bộ lông cừu vàng được giữ lại từ anh ta), rời bỏ quê hương, giết chết anh trai cô. Creon, biết sự tức giận của Medea nguy hiểm như thế nào, đã ra lệnh cho cô rời khỏi thành phố ngay lập tức; Nhưng, trước sự thuyết phục của cô, anh đã cho cô 1 ngày để tạm biệt các con. Ngày này đủ để Medea trả thù. Cô ấy đã gửi quần áo tẩm phép thuật như một món quà cho con gái hoàng gia, và cô ấy, sau khi mặc chúng, đã bị thiêu rụi cùng với cha mình, người đã vội vã đến viện trợ cho cô ấy.

Si sapis, sis apis.-Nếu bạn thông minh, hãy là một con ong (tức là làm việc)

Si tacuisses, Philosophus mansisses. - Nếu bạn im lặng, bạn sẽ vẫn là một triết gia.

So sánh: "Giữ im lặng - bạn sẽ vượt qua cho thông minh." Nó dựa trên câu chuyện của một người đàn ông tự hào với danh hiệu triết gia, được trích dẫn bởi Plutarch ("Về một cuộc đời ngoan đạo", 532) và Boethius ("Sự an ủi trong triết học", II, 7). Có người tố cáo ông, hứa sẽ công nhận ông là một triết gia nếu ông kiên nhẫn chịu đựng mọi lời sỉ nhục. Sau khi nghe người đối thoại nói, người đàn ông tự hào hỏi một cách chế giễu: "Bây giờ bạn có tin rằng tôi là một nhà triết học?" - "Tôi sẽ tin nếu bạn giữ im lặng."

Si vales, Bene est, ego valeo. (S.V.B.E.E.V.) - Nếu bạn khỏe mạnh thì tốt, còn tôi khỏe mạnh.

Seneca ("Moral Letters to Lucilius", 15, 1), kể về phong tục cổ xưa và được bảo tồn cho đến thời của ông (thế kỷ 1 sau Công nguyên) bắt đầu một lá thư bằng những từ này, chính ông đã nói với Lucilius như sau: "Nếu bạn đang học triết học, điều đó tốt. Vì chỉ trong cô ấy mới có sức khỏe ”(bản dịch của S. Osherov).

Si vis amari, ama. - Nếu bạn muốn được yêu, hãy yêu

Được trích dẫn bởi Seneca ("Những bức thư đạo đức cho Lucilius", 9, 6) những lời của nhà triết học Hy Lạp Hecaton.

Si vis speedm, para bellum. - Nếu bạn muốn hòa bình, chuẩn bị cho chiến tranh.

Chính tả đã đặt tên cho Parabellum - một khẩu súng lục 8 viên tự động của Đức (nó được phục vụ trong quân đội Đức cho đến năm 1945). “Ai muốn hòa bình, hãy để người ấy chuẩn bị chiến tranh” - lời của nhà văn quân đội La Mã thế kỷ 4. QUẢNG CÁO Vegetia ("Hướng dẫn ngắn gọn trong các vấn đề quân sự", 3, Lời mở đầu).

Sic itur ad astra. - Vì vậy, họ đi đến các vì sao.

Những lời này từ Virgil ("Aeneid", IX, 641), thần Apollo nói với con trai của Aeneas Askania (Yulu), người đã đánh kẻ thù bằng một mũi tên và giành được chiến thắng đầu tiên trong đời.

Sic quá cảnh gloria mundi. - Đây là cách mà vinh quang thế gian trôi qua.

Thông thường họ nói điều này về một cái gì đó đã mất (sắc đẹp, vinh quang, sức mạnh, sự vĩ đại, quyền uy) đã mất đi ý nghĩa của nó. Nó dựa trên luận thuyết của triết gia thần bí người Đức Thomas Kempis (1380-1471) "Về việc bắt chước Đấng Christ" (I, 3, 6): "Ồ, vinh quang thế gian trôi qua nhanh làm sao." Bắt đầu từ khoảng năm 1409, những từ này đã được phát âm trong buổi lễ tấn phong Giáo hoàng mới, đốt một mảnh vải trước mặt ông như một dấu hiệu của sự mong manh và hư hỏng của mọi thứ trên đất, bao gồm cả quyền lực và vinh quang mà ông nhận được. Đôi khi câu chính tả được trích dẫn với từ cuối cùng được thay thế, ví dụ: "Sic transit tempus" ("Thời gian trôi qua").

Phần 1 Phần 2 Phần 3

Câu nói tiếng la tinh

Tiên nghiệm. "Từ trước", dựa trên cái đã biết trước đó. Theo logic - một suy luận dựa trên các quy định chung, được coi là đúng.

Ab altero mong đợi, alteri quod feceris. Mong đợi từ đối phương những gì mà bản thân bạn đã làm cho đối phương (xem nó xuất hiện xung quanh, như vậy sẽ đáp ứng).

Ab ovo usque ad mala. "Từ trứng đến táo", từ đầu đến cuối. Bữa tối của người La Mã cổ đại thường bắt đầu với một quả trứng và kết thúc bằng trái cây.

Ab urbe condita. Từ khi thành lập thành phố (tức là Rome; sự thành lập của Rome có từ năm 754-753 trước Công nguyên). Thời đại của niên đại La Mã. Đây là tên của tác phẩm lịch sử của Titus Livy, tác phẩm đã đặt ra lịch sử của Rome từ nền tảng huyền thoại của nó cho đến năm 9 sau Công nguyên.

Abi et vome! - Ra ngoài và bất mãn! (đơn thuốc trong các bữa tiệc của người La Mã)

Abusus in Baccho - Lạm dụng rượu, lạm dụng trong vương quốc Bacchus, do đó có thành ngữ "Những người sùng bái Bacchus" ...

Đặc biệt. "Đối với điều này", "liên quan đến điều này", đặc biệt là đối với trường hợp này.

Ad libitum. Tùy ý, bởi<своему>tùy ý (trong âm nhạc - nhịp độ của một bản nhạc, được cung cấp theo quyết định của người biểu diễn).

Định lý đặc biệt dei gloriam. "Đến sự vinh hiển cao cả hơn của Đức Chúa Trời"; thường được sử dụng trong các cách diễn giải cho sự tôn vinh, cho vinh quang, nhân danh chiến thắng của một ai đó, một cái gì đó. Phương châm của Dòng Tên, được thành lập năm 1534 bởi Ignatius Loyola.

Alea jacta est. “Cái chết được ném đi” - về một quyết định không thể thay đổi, về một bước không cho phép rút lui, trở về quá khứ. Những lời của Julius Caesar, người quyết định nắm giữ quyền lực duy nhất, đã nói trước khi vượt sông Rubicon, nơi bắt đầu cuộc chiến với Viện nguyên lão.

Trường cũ. “Mẹ nuôi dưỡng” (tên gọi tượng hình truyền thống của các cơ sở giáo dục, thường cao hơn).

Thay đổi bản ngã. Một tôi khác, tôi thứ hai (về bạn bè). Được gán cho Pythagoras.

Amicitia inter pocula Contracta plerumque vitrea est - Tình bạn được thiết lập trên một ly rượu vang thường rất dễ vỡ (nghĩa đen: thủy tinh).

Amicus certus trong re incerta cernitur. "Một người bạn trung thành được biết đến trong một hành động sai trái", nghĩa là, một người bạn thực sự được biết đến trong khó khăn (Cicero, "Luận về tình bạn").

Amicus Plato, sed magis amica veritas. Plato là bạn của tôi, nhưng sự thật còn là một người bạn vĩ đại hơn. Biểu thức trở lại với Plato và Aristotle.

Định lý canat aetas prima. Hãy để tuổi trẻ hát về tình yêu (Sextus Righttius, "Elegies").

Aquila non captat muscas. Đại bàng không bắt ruồi (tục ngữ Latinh).

Ars longa, vita brevis (còn có Vita brevis, ars longa) - Con đường khoa học thì dài, cuộc đời thì ngắn.

Audiatur et altera pars. Bên kia (hoặc đối diện) cũng nên được lắng nghe. Về việc vô tư xem xét các tranh chấp. Biểu thức trở lại với lời tuyên thệ nhậm chức tư pháp ở Athens.

Aurea tầm thường. Ý nghĩa vàng. Công thức của đạo đức thực tiễn, một trong những quy định chính của triết lý hàng ngày của Horace ("Odes").

Auri sacra nổi tiếng. Bị nguyền rủa khát vàng. Virgil, "Aeneid".

Aut bibat, aut abeat! - Hoặc để anh ta uống hoặc bỏ đi! (quy tắc các lễ của người La Mã)

Aut Caesar, aut nihil. Hoặc Caesar, hoặc không có gì (xem tiếng Nga. Hoặc pan hoặc biến mất). Phương châm của Cesare Borgia, một hồng y và nhà thám hiểm quân sự người Ý. Nguồn gốc của khẩu hiệu này là những lời được cho là của hoàng đế La Mã Caligula (12-41), nổi tiếng với sự ngông cuồng của ông.

Ave Caesar, morituri te chào. Xin chào Caesar,<император,>những người sắp chết chào đón bạn. Lời chào của các đấu sĩ La Mã tới hoàng đế. Được chứng nhận bởi nhà sử học La Mã Suetonius.

Bellum omnium contra omnes. Chiến tranh của tất cả chống lại tất cả. T. Hobbes, "Leviathan", về trạng thái tự nhiên của con người trước khi hình thành xã hội.

Bibere ad numerum ... - Uống theo số [số năm mong muốn của cuộc đời] (quy tắc của các bữa tiệc La Mã)

Carpe diem. "Nắm bắt ngày", tức là tận dụng lợi thế của ngày hôm nay, nắm bắt thời điểm. Phương châm Epicurean. Horace, "Odes".

Ceterum censeo Carthaginem esse deletendam. Và bên cạnh đó, tôi cho rằng Carthage phải bị tiêu diệt. Nhắc nhở kiên trì; biểu thức đại diện cho những lời của Marcus Porcius Cato the Elder, mà ông đã thêm vào cuối mỗi bài phát biểu tại Thượng viện, bất kể ông phải nói gì.

Chirurgia fructuosior ars nulla - Phẫu thuật là kết quả tốt nhất của tất cả các nghệ thuật.

Chirurgiae effectus inter omnes medicinae partes Evidenceissimus - Hiệu quả của phẫu thuật giữa các ngành y học khác là rõ ràng nhất.

Chirurgus curat manu armata - Bác sĩ phẫu thuật chữa bệnh bằng bàn tay vũ trang của mình.

Chirurgus mente prius et oculis agat, quam armata manu - Trước tiên, hãy để bác sĩ phẫu thuật hành động bằng trí óc và đôi mắt hơn là bằng bàn tay có vũ khí.

Cibi, potus, somni, venus omnia moderata sint. Thức ăn, thức uống, giấc ngủ, tình yêu - hãy điều độ mọi thứ (câu nói của thầy thuốc Hy Lạp Hippocrates).

Citius, altius, fortius! Nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn! Phương châm của Thế vận hội Olympic, được thông qua vào năm 1913.

Cogito, tổng hợp. Tôi nghĩ, do đó tôi là như vậy. R. Descartes, "Các nguyên tắc của triết học."

Consequitur gravitas membrorum, praepediuntur

Consuetudo est altera natura. Thói quen là bản chất thứ hai. Cicero, "Về cái thiện cao nhất và cái ác cao nhất."

Ngược lại spem Spero! - Hy vọng trái ngược với hy vọng.

Contra vim mortis non est medicamen in hortis - Không có loại thuốc nào chống lại cái chết trong các khu vườn (Từ mã sức khỏe Salerno).

Credo. "Tôi tin." Cái gọi là "Biểu tượng của Đức tin" là một lời cầu nguyện bắt đầu bằng từ này, là một tập hợp ngắn các tín điều của Cơ đốc giáo. Theo nghĩa bóng: những quy định chính, những nền tảng của thế giới quan của một người nào đó, những nguyên tắc cơ bản của một người nào đó.

Crura vacillanti, tardescit lingua, madet mens.

Cujusvis hominis est errare; nullius, sin insipientis, in irrore perseverare. Ai cũng mắc sai lầm là chuyện thường tình, nhưng chẳng phải ai dại gì mà cố chấp mắc sai lầm. Mark Tullius Cicero, Philippines.

Sơ yếu lý lịch. "The Way of Life", một cuốn tiểu sử ngắn.

De gustibus non est disputandum. Không có gì phải bàn cãi về khẩu vị (xem như không có đồng đội về hương vị và màu sắc).

Chắc chắn rồi. Trên thực tế. Một cách chính đáng, hợp pháp. Trên thực tế, trên thực tế.

Difficile est proprie communia dicere - Rất khó để diễn đạt các chân lý chung theo cách của bạn.

Chia et impera. Chia ra và cai trị. La tinh xây dựng nguyên tắc của chính sách đế quốc chủ nghĩa.

Divinum opus sedare dolorem - Thần dược xoa dịu cơn đau.

Docendo discimus. Khi chúng tôi dạy, chúng tôi học chính mình. Seneca, Thư từ.

Ducunt volentem fata, nolentem trahunt. Số phận dẫn dắt kẻ muốn đi, nhưng kẻ không muốn đi, nó lại kéo người ấy đi. Một câu châm ngôn của triết gia Khắc kỷ Hy Lạp Cleanthes, được Lucius Anneus Seneca dịch sang tiếng Latinh trong Những bức thư của ông.

Còn sống, còn hy vọng. Trong khi tôi thở, tôi hy vọng. Một công thức tư tưởng hiện đại, được tìm thấy trong Những bức thư của Cicero gửi Atticus và Những bức thư của Seneca.

Dum vitant stulti vitia, in contraria currunt. Kẻ ngu xuẩn, tránh những tệ nạn, lại rơi vào những tệ nạn trái ngược (Quintus Horace Flaccus).

Màng cứng Lex SED lex. "Luật pháp là khắc nghiệt, nhưng luật pháp", tức là luật pháp có khắc nghiệt đến đâu, nó vẫn phải được tuân thủ.

Ebrietas certe parit insaniam - Say rượu chắc chắn sinh ra điên

Ebrietas est Voluntaria insania - Say rượu là sự điên cuồng tự nguyện (do Aristotle quy định).

Ebrii ebrios gignunt - Say rượu sinh ra say

Edite, bibite, nulla voluptas sau khám nghiệm! - Ăn, uống, sau khi chết không có khoái cảm!

Epistula non erubescit. Thư không đỏ mặt. Trong một bức thư, bạn có thể bày tỏ những gì bạn xấu hổ khi nói trong một cuộc họp cá nhân.

Errare humanum est. “Sai là tài sản của con người”, sai là bản chất của con người. Mark Annay Seneca Senior, Tranh cãi.

Eruditio aspera optima est. Đào tạo nghiêm ngặt là tốt nhất.

Mô-đun dự kiến ​​trong xe buýt. Có một thước đo trong mọi thứ, tức là mọi thứ đều có thước đo. Horace, "Satyrs".

Et semel broadcastum volat không thể hủy ngang verbum - Và ngay sau khi bạn thốt ra nó, từ không thể hủy ngang sẽ bay đi.

Et vini bonitas et - quaelibet altera causa

Exempli gratia (ví dụ:). Ví dụ, chẳng hạn.

Feci, quod potui, faciant meliora potentes. Tôi đã làm tất cả những gì có thể, ai có thể thì hãy để người ấy làm tốt hơn. Một diễn giải thơ mộng về công thức mà các quan chấp chính La Mã kết thúc bài phát biểu của họ, chuyển giao quyền lực cho người kế vị.

Fecundi calices quem non fecere disertum? - Ai đã không đầy chén làm nên tài hùng biện?

Festina cho vay. "Nhanh lên từ từ", làm mọi thứ từ từ. Bản dịch tiếng Latinh của một câu tục ngữ Hy Lạp (Speude bradeos), mà Suetonius trích dẫn dưới dạng tiếng Hy Lạp là một trong những câu nói thông thường của Augustus ("Augustus thần thánh").

Fiat lux. Để có được ánh sáng. Sáng thế ký 1: 3.

Finis coronat opus. Kết thúc công việc; cuối cùng là vương miện.

Chi kích thích vatum - Một bộ tộc cáu kỉnh của các nhà thơ.

Grandis et, ut ita dicam, pudica oratio non est maculosa, rec turgida, sed naturali pulchritudine exsurgit - Cao và có thể nói, tài hùng biện đẹp vì vẻ đẹp tự nhiên của nó, chứ không phải để khoe khoang và khoe khoang.

Gravia graviorem curam exigunt pericula - Mối nguy hiểm nghiêm trọng đòi hỏi điều trị nghiêm trọng hơn.

Gutta cavat lapidem non vi sed saepe cadendo. Một giọt nước đục khoét đá không phải bởi lực, mà bởi những cú rơi thường xuyên. Ovid, "Tin nhắn từ Pontus".

Homines soli animantium non sitientes bibimus - Trong số các loài động vật, chỉ có người uống mà không khát

Homo novus. Người mới. Một người có nguồn gốc bình dân, người đã đạt được vị trí cao trong xã hội.

Homo sum: human nihil a me alieum puto. Tôi là một con người và tôi tin rằng không có gì con người là xa lạ với tôi. Nó được sử dụng khi bạn muốn nhấn mạnh chiều sâu và bề rộng của sở thích, sự tham gia vào mọi thứ thuộc về con người hoặc ý nghĩa: Tôi là một con người và không miễn nhiễm với bất kỳ ảo tưởng và điểm yếu nào của con người. Terence, "Anh ta tự trừng phạt mình."

Tôn vinh nhiều hơn nữa của đột biến. Danh dự thay đổi đạo đức. Plutarch, Cuộc đời của Sulla.

Hospitis Adventus, praesens sitis atque futura,

Vô minh Sự ngu dốt không phải là một lý lẽ. Benedict Spinoza, Đạo đức.

Trong dubitantibus và không rõ ràng, nghi ngờ ung thư - trong các trường hợp nghi ngờ và không rõ ràng, nghi ngờ ung thư.

In vino feritas - Tính hoang dã trong rượu vang (phụ âm với In vino veritas)

In vino veritas - Sự thật trong rượu vang (một phần tương ứng với thành ngữ "Cái gì trong tâm trí của một người tỉnh táo, sau đó là một người say rượu").

Trong vino veritas, trong thủy sinh - Sự thật là trong rượu, và sức khỏe là trong nước.

Inter pocula - Dùng cho một tách (rượu).

Licentia Poeta - Thơ tự do.

Lingua est hostis hominum amicusque diaboli et feminarum - Ngôn ngữ là kẻ thù của con người và là bạn của ma quỷ và phụ nữ.

Littera Occidit, Spiritus autem vivificat - Bức thư giết người, nhưng tinh thần mang lại sự sống.

Loco dolenti - tại điểm đau.

Locus minoris Resistencia là nơi ít kháng cự nhất.

Magister bibendi - Bậc thầy về rượu

Malum nullum est sine aliquo bono. Có lớp lót bạc. Tục ngữ Latinh.

Manus manum lavat. Tay rửa tay.

Medice, cura te ipsum! - Bác sĩ ơi, tự chữa đi! (Phúc âm Lu-ca, ch. IV).

Memento mori! - Memento Mori!

Memento vivere! (memento vitae) - Nhớ đời!

Mens sana trong corpore sano. Trong một cơ thể khỏe mạnh tâm trí khỏe mạnh. Juvenal, "Satyrs".

Meum est propositum trong taberna mori,

Molestia igitur est, o, amici viri, ebrietas! - Cơn say kinh khủng làm sao, ôi bạn của một người đàn ông!

Multos timere debet, quem multi timent. Nhiều người nên sợ người mà nhiều người đang sợ. Publius Sire.

Multum vinum bibere, non diu vivere - Uống nhiều rượu - sống không lâu.

Mutatis mutandis. Bằng cách thay đổi những gì cần thay đổi; mutatis mutandis.

Natura non facit Saltus - Thiên nhiên không tạo ra những bước nhảy (jumps).

Natura non nisi parendo vincitur (biến thể của Natura non imperatur nisi parendo) - Thiên nhiên không thể bị đánh bại nếu không tuân theo nó.

Ne glađi, đa năng! - Đừng cầm kiếm, phụ nữ!

Ne noceas, si juvare non potes - không có hại nếu bạn không thể giúp đỡ.

Neentsas aut perfice - Đừng thử hoặc bỏ đi.

Noli me tangere - "đừng chạm vào tôi".

Non est culpa vini, sed culpa bibentis - Rượu không đáng trách mà người uống mới đáng trách.

Non estcipulus super magistrum. Một đệ tử không cao hơn thầy của mình. Phúc âm của Ma-thi-ơ.

Không phải olet. "Không có mùi"<деньги>không có mùi. Suetonius, "Vespasian thần thánh".

Nosce te ipsum và "Cogito, ergo sum" là hai câu khẩu hiệu nổi tiếng của hai ngành khoa học, cổ và mới. Cái mới đáp ứng lời khuyên của người xưa, và "Cogito, ergo sum" là câu trả lời cho "Nosce te ipsum" ... Con người khác động vật như thế nào? - Tự hiểu biết, tư duy. "Cogito, ergo sum" - tiền thân của triết học mới nói. Đó là cách suy nghĩ quan trọng: nó là mục đích chính của một người ... "

Nosce te ipsum. Biết chính mình. Bản dịch tiếng Latinh của từ Hy Lạp dictum gnothi seauton, do Thales viết và được khắc trên bệ của ngôi đền ở Delphi.

Xin chào! (Không!). "Chú ý tốt," chú ý. Một ghi chú dùng để thu hút sự chú ý đến bất kỳ phần đáng chú ý đặc biệt nào của văn bản.

Nulla chết sine linea. Không một ngày nào mà không bị đột quỵ; không một ngày nào không có một dòng (được sử dụng trong cuốn "Lịch sử tự nhiên" của Gaius Pliny Cecilius the Elder trong mối quan hệ với họa sĩ Hy Lạp cổ đại Apelles).

Nunc est bibendum - Bây giờ chúng ta cần uống.

Hỡi những kẻ bắt chước, tiểu hầu tử! - Hỡi những kẻ bắt chước, bầy nô lệ!

Tạm thời! Hỡi những người khác! Về thời gian! Về đạo đức! Cicero, Bài phát biểu chống lại Catiline.

Các nhà thơ Oderunt - Các nhà thơ bị ghét bỏ.

Odi profanum vulgus et arceo - Tôi coi thường và xua đuổi đám đông ngu dốt.

Mecum porto Omnia. Tôi mang theo mọi thứ bên mình. Những từ được Cicero gán cho Biantus, một trong bảy nhà thông thái.

Omnis ars imitatio est naturae. Tất cả nghệ thuật là sự bắt chước của tự nhiên. Seneca, "Tin nhắn".

Thuốc tối ưu quies est. Thuốc tốt nhất là hòa bình. Xác nhận của Aulus Cornelius Celsus, thầy thuốc người La Mã.

Ora et labra - Cầu nguyện và làm việc.

Oratio pedris - lit: Diễn văn đi bộ, văn xuôi

Panem et Circenses. Meal'n'Real. Một sự phản đối kịch liệt thể hiện những yêu cầu cơ bản của đám đông La Mã, vốn đã mất quyền chính trị trong thời kỳ Đế chế và bằng lòng với việc phân phát bánh mì miễn phí và các buổi biểu diễn xiếc miễn phí.

Parturiunt montes, nascetur nhạo báng. Núi sinh ra, và một con chuột vui nhộn sẽ ra đời; ngọn núi đã sinh ra một con chuột (Quintus Horace Flaccus, trong cuốn Khoa học về thơ ca, chế giễu những nhà văn bắt đầu tác phẩm của họ bằng những lời hứa hùng hồn, mà sau này không được biện minh).

Chương trình giảng dạy ở moro. "Nguy hiểm khi chậm trễ", tức là chậm trễ là nguy hiểm. Titus Livy, Lịch sử.

Persona (không) grata. (Un) người được mong muốn (thuật ngữ luật quốc tế). Theo nghĩa rộng, một người (không) được tin cậy.

Plure crapula, quam happyius perdidit - Uống (cốc) giết người còn hơn kiếm.

Ảnh: Poema loguens.

Posa semper tiro - Một nhà thơ luôn là một người đơn giản.

Poratae nascuntur, oratores fiunt - Nhà thơ được sinh ra, họ trở thành nhà hùng biện.

Đăng thực tế. "Sau khi thực tế", tức là sau khi sự kiện đã diễn ra; hồi tố, muộn.

Đăng scriptum (P.S.). "Sau những gì được viết" hoặc "Sau những gì được viết", một phần tái bút ở cuối bức thư.

Prima cratera ad sitim pertinet, secunda - ad hilaritatem, tertia - ad voluptatem, quarta - ad insaniam. - Bát thứ nhất thúc đẩy cơn khát, bát thứ hai - vui vẻ, bát thứ ba - khoái cảm, thứ tư - điên cuồng.

Nguyên tắc sản xuất! - Chống lại sự khởi đầu!

Pro và tương phản. Ưu và nhược điểm.

Thuận lợi! Đối với sức khỏe của bạn! Chúc mừng!

Pulcher sedens, melius agens = Đo bảy lần, cắt một lần (sáng: ngồi tốt, hoạt động tốt hơn).

Quae medicamenta non sanat, ferrum sanat; quae ferrum non sanat, ignis sanat. Quae vero ignis non sanat, insanabilia Prestiari oportet - Thuốc gì không lành, sắt không chữa, sắt không lành, lửa chữa lành. Mà ngay cả lửa cũng không chữa lành, nó nên được công nhận là không thể chữa được.

Qualis rex, talis grex. Với tư cách là nhà vua, đám đông cũng vậy. Tục ngữ Latinh. Thứ Tư Pop gì, giáo xứ cũng vậy.

Qui in animo sobrii, id est in lingua ebrii - Những gì trong tâm hồn của một người tỉnh táo nằm trên lưỡi của một kẻ say.

Qui không labrat, không manducet. Ai không làm việc, hãy để người đó không ăn. Thư thứ 2 của Phao-lô gửi Tê-sa-lô-ni-ca 3:10.

Quidquid agis, prudenter agas et respice finem - Dù bạn làm gì, hãy làm theo lý trí và thấy trước kết cục.

Quod erat demorandum (q.e.d.). Q.E.D. Công thức truyền thống để hoàn thành chứng minh.

Trích dẫn chí Jovi, không viết tắt tiếng Anh. Những gì được phép đối với Sao Mộc thì không được phép đối với một con bò đực. Tục ngữ Latinh.

Lặp lại trường cũ studiorum. Sự lặp lại là mẹ của việc học. Tục ngữ Latinh.

Salus phổ biến - suprema lex. Quyền lợi của người dân là quy luật cao nhất. Cicero, “Về luật pháp.

Salus Revutionis suprema lex - Lợi ích của cuộc cách mạng là quy luật cao nhất.

Sapienti ngồi. Đối với sự hiểu biết nó là đủ<того,>... Titus Maccius Plautus, Pers.

Khoa học giáo có sức mạnh. Kiên thức là sức mạnh. Một câu cách ngôn dựa trên tuyên bố của F. Bacon trong "New Organon".

Scio me nihil scire. Tôi biết là tôi chằng biết thứ gì. Bản dịch sang tiếng Latinh những lời của Socrates, được trích dẫn trong tác phẩm của Plato "Lời xin lỗi của Socrates".

Semper homo tiền thưởng tiro est. Người tử tế luôn là người giản dị. Võ.

Sero venientibus ossa. Ai đến muộn (tức là đến muộn) thì bị hóc xương. Tục ngữ Latinh.

Si vis speedm, para bellum - nếu bạn muốn hòa bình - hãy sẵn sàng cho chiến tranh do sử gia người La Mã Cornelius Nepotus (94-24 trước Công nguyên) Theo các nguồn khác, cụm từ này thuộc về nhà văn La Mã Vegetius

Sic quá cảnh gloria mundi. Đây là cách mà vinh quang thế gian trôi qua. Cụm từ mà Giáo hoàng tương lai được đề cập trong khi nâng lên cấp bậc này, trong khi đốt một mảnh vải trước mặt như một dấu hiệu của ảo tưởng về sự tồn tại trên trần thế.

Simia quantum similis turpissima bestia nobis! - Sinh vật xấu xa nhất - con khỉ - trông giống chúng ta làm sao!

Sine Cerere et Libero friget Venus - Không có Ceres và Liber, tình yêu trở nên lạnh nhạt.

Sine prece, sin pretio, sin poculo. - Không đòi hỏi, không hối lộ, không uống rượu.

Sirecte memini, sunt causae quinque bibendi:

Suum cuique. Đối với mỗi người của riêng mình, tức là cho mỗi cái thuộc về mình theo lẽ phải, cho mỗi người theo công trạng của mình. Vị trí của luật La Mã.

Temeritas est florentis aetatis. Phù phiếm là đặc trưng của thời đại hưng thịnh. Đánh dấu Tullius Cicero.

Terra incognita. Vùng đất không xác định. Chuyển.: Một cái gì đó hoàn toàn không xác định hoặc không thể truy cập, không thể hiểu được khu vực.

Tertium non datur. Thứ ba không được đưa ra; không có thứ ba. Hình thành một trong bốn quy luật của tư duy - quy luật của cái thứ ba bị loại trừ - trong logic hình thức.

Ubi mủ, ibi majua - Chỗ nào có mủ thì làm sạch.

Tỷ lệ Ultima - Phương án cuối cùng.

Út ngồi vinum proximum morientis ori ...

Vae victis. Khốn cho kẻ bại trận. Trong cuộc vây hãm thành Rome bởi những người Gaul, cư dân của thành phố đã phải trả một khoản tiền chuộc là một nghìn bảng vàng. Trên bàn cân nơi có quả cân, một Gaul đặt thanh kiếm nặng của mình, nói: "Khốn cho kẻ bại trận." Titus Livy, Lịch sử.

Veni, vidi, Lower. Tôi đến, tôi thấy, tôi đã thắng. Theo lời khai của Plutarch trong Tiểu sử so sánh, với cụm từ này, Julius Caesar đã thông báo cho bạn mình là Amintius về chiến thắng trong trận chiến Zele.

Verba volant, scripta mannt - Lời nói bay đi, chữ viết vẫn còn.

Vina bibunt homines, Animalia cetera fontes - Chỉ người uống rượu, các loài động vật còn lại uống nước tinh khiết (từ nguồn).

Vinum Apoatare facit etiam sapientes - Rượu đưa ngay cả những nhà hiền triết vào tội lỗi.

Vinum enim multum potatum provationem et iram et ruinas multas facit - Tuy nhiên, uống rượu với số lượng lớn sẽ gây ra sự cáu kỉnh, tức giận và nhiều phiền toái.

Vinum loc đờm est - Rượu vang lên tiếng.

Vinum moderatum debilem gastum reficit, vires reparat, algentem frigore caleficit, tristitiam etiam removet, laetitiam infundit - Rượu điều độ giúp tăng cường sức khỏe dạ dày yếu, phục hồi sức lực, làm ấm người bị cảm, xua tan phiền muộn, tràn đầy niềm vui.

Vita sine libertate nihil. Cuộc sống mà không có tự do thì không là gì cả (nguồn gốc chưa được thiết lập; tìm thấy trong R. Roland, "Chống lại chủ nghĩa phát xít Ý").

Cứng rắn mạnh mẽ. Sống là phải nghĩ. Cuộc trò chuyện của Cicero, Tuskulan. Phương châm của Voltaire

Quá mạnh mẽ. Sống là phải chiến đấu. Seneca, Thư từ.

Volens nolens. Dù muốn hay không, willy-nilly.

Người nghèo bị đánh bại ở khắp mọi nơi - Pauper ubique jacet (Ovid, "Fasty");

Chuỗi hạt trước mặt lợn - Margaritas ante porcos (Phúc âm Ma-thi-ơ);

Nhiều tiếng chuông hơn là ý nghĩa - Plus sonat, quam valet (Seneca, "Letters");

Gần gũi với rượu là thân thương nhất đối với tôi.

Một con rắn đang trốn trong cỏ - Latet anguis in herba (Virgil, "Bucolics");

Mọi người nhìn thấy nhiều hơn trong việc kinh doanh của người khác hơn là ở của họ - Homines plus trong alieno negotio videre quam trong suo (Seneca, "Những bức thư");

Ai cho nhanh cho gấp đôi - Bis dat, qui cito dat (Publius Sire);

Một người bạn đồng hành vui vẻ trên đường thay thế phi hành đoàn - Đến facundus bằng phương tiện chuyên nghiệp (Publius Sire "Sentences");

Không có gì có vẻ ngoài đáng tin cậy - Frontis nulla fides (Juvenal, "Satyrs");

Trong thời bình - sư tử, trong trận chiến - hươu - Trong nhịp điệu leones, trong proelio cervi (Tertullian "Trên vòng hoa");

Bác sĩ ơi, hãy tự chữa bệnh cho mình! - Medice, cura te ipsum (Phúc âm Lu-ca);

Ở đâu có khói, ở đó có lửa - Flamma fumo est proxima (Plavt "Curculion");

Lái xe thiên nhiên bằng một cái chĩa ba, nó vẫn sẽ quay trở lại - Naturam trục xuất furca, tamen usque recurret (Horace, "Epistles");

Bắp cải luộc đôi - Crambe bis cocta (Juvenal, "Satyrs");

Danh vọng tốt đẹp - cùng thừa kế - Honestus đồn đại luân phiên (Publius Sire of the Sentences);

Đủ tài hùng biện, ít trí tuệ - Satis eloquentiae, sapientiae parum (Sallust, "Âm mưu của Catiline");

Một cặp đôi xứng đáng - Par nobile fratrum (Horace, "Satires");

Ý định xấu quay lưng lại với kẻ đã lên kế hoạch xấu xa - Malum consilium Consultori pessimum est (Aulus Gellius, "Những đêm gác mái");

Khói sau tia chớp - Fumus ex fulgore (Horace, "Khoa học về thi ca");

Nếu các tầng trời đã sụp đổ, sụp đổ - Si fractus illabatur orbis (Horace, "Odes");

Nếu Chúa không canh giữ ngôi nhà, những người bảo vệ sẽ tỉnh táo một cách vô ích - Nisi Dominus custodierit domum, trong vanum vigilant qui custodiunt eum (Psalter, Psalm-126);

Nếu bạn ngắt một nhánh này, nhánh khác sẽ ngay lập tức xuất hiện - Uno avulso, không thâm hụt thay đổi (Virgil, "Aeneid");

Mong đợi từ người khác những gì bản thân bạn đã làm cho người khác - Ab altero mong đợi, alteri quod feceris (Publius Sire of the Sentences);

Tôi biết bạn cả dưới da lẫn ngoài - Ego te intus et in cute novi (Persia, "Satyrs");

Và khói quê cha ngào ngạt - Et fumus patriae est dulcis (Ovid, "Những bức thư của Pontus");

Và ngay khi bạn thốt ra nó, từ không thể thay đổi sẽ bay đi - Et semel broadcastum volat không thể thu hồi verbum (Horace, "Tin nhắn");

Chọn ít tệ nạn nhất - Ex malis eligere minima (Cicero, "Làm nhiệm vụ");

Thức ăn dư thừa cản trở sự tinh tế của tâm trí - Copia ciborum subtilitas animi impeditur (Seneca, "Những bức thư");

Hoặc đừng lấy nó, hoặc mang nó đến cùng - Aut non tentaris, aut perfice (Ovid, "The Science of Love");

Những người khác cho rằng nên đánh gục tình cũ bằng tình mới, giống như một cây cọc - Novo quidam amore veterem amorem, tanquam clavo clavum, ejiciendum putant (Cicero, "Tuskulan Đàm thoại");

Hiệu suất phía trên vật liệu là Materiam superabat opus (Ovid "Metamorphoses");

Kết cục của vụ án là người cố vấn của kẻ vô lý - Eventus stultorum magister est (Titus Livy);

Mỗi người thợ rèn số phận của chính mình là Faber est suae quisque fortunae (Appius Claudius);

Một giọt nước đục khoét một viên đá không phải bằng lực, mà do rơi thường xuyên - Gutta cavat lapidem non vi, sed saepe cadendo (Ovid, "Những bức thư từ Pontus");

Con bò tót không làm thầy tu - Cucullus non facit monachum (Shakespeare "Measure for Measure");

Ngọn giáo không hiếu chiến, không đòn - Tellum imbelle, sin ictu (Virgil, "Aeneid");

Ai ở khắp mọi nơi, người đó không ở đâu - Nusquam est qui ubique est (Seneca, "Những lá thư");

Ai không làm việc, đừng ăn - Qui non labrat, non manducet (Tân Ước, Thư của Sứ đồ Phao-lô cho người Tê-sa-lô-ni-ca);

Ai sẽ phân loại giữa xảo quyệt và dũng cảm khi đối đầu với kẻ thù? - Dolus an Virtus quis trong hostequirat? (Virgil, "Aeneid");

Muộn còn hơn không - Potius sero quam nunquam (Titus Livy, Lịch sử);

Thà mất bạn còn hơn là lời nói sắc bén - Potius amicum quam dictum perdere (Quintilian, "The Teachings of an Orator");

Thà chết còn hơn bị ô nhục - Potius mori quam foedari (Jacob của Bồ Đào Nha);

Mọi người đều có cùng một tình yêu - Tình yêu omnibus idem (Virgil, "Georgics");

Người ta tin vào mắt hơn tai - Homines amplius oculis, quam auribus credunt (Seneca, "Letters");

Nếu bạn không phạm tội, bạn sẽ không ăn năn - Peccando promeremur (Tertullian);

Đối với bản thân tôi cũng như với người khác - Nec sibi, Nec alteri (Cicero, "Làm nhiệm vụ");

Sự xa cách làm tăng sự quyến rũ - Major e longinquo Reverentia (Tacitus, Biên niên sử);

Viết trên mặt nước - In aqua scribere (Catullus);

Bức thư không đỏ mặt - Epistula non erubescit (Cicero, "Những bức thư gửi người thân");

Bằng móng vuốt của sư tử - Ех ungue leonem (Lucian, "Germotim");

Chiến thắng hoặc Chết - Vincere aut mori (William Thackeray, "The Virginians");

Like được chữa khỏi bởi like - Similia similibus curantur (S. Hahnemann, "The Organon of Medical Art");

Hữu ích với dễ chịu - Utile dulci (Horace, "Khoa học về thơ");

Ai đã không đầy chén làm cho hùng hồn? - Fecundi calices quem non fecere disertum? (Horace, "Thư tín");

Con tàu đắm và nỗi sợ hãi nước lặng - Tranquillas etiam naufragus horret aquas (Ovid, "Thông điệp từ Pontus");

Một người du hành không có gì bên mình có thể tụng kinh trước sự chứng kiến ​​của một tên cướp - Cantabit vacuus coram latrone viator (Juvenal, "Satyrs");

Kẻ háu ăn luôn cần - Semper avarus eget (Horace, "Tin nhắn");

Định mệnh giúp người dũng cảm - Fortes fortuna adjuvat (Simonides of Keossky);

Tàu sẽ giữ được mùi lâu - Servabit odorem testa diu (Horace, "Epistles");

Những cuộc cãi vã của những người yêu nhau - sự đổi mới của tình yêu - Amantium irae amoris integrationtio est (Terence, "Cô gái đến từ Andros");

Con người đề xuất và Chúa định đoạt - Homo proponit, sed deus disponit (Thomas of Kempis);

Những tệ nạn của người ngoài hành tinh đang ở trước mắt chúng ta, và của chúng ta ở phía sau chúng ta - Aliena vitia trong oculis habemus, một tergo nostra sunt (Seneca, "Về sự tức giận");

Người ngoài hành tinh đối với chúng ta, và những người khác giống như của chúng ta - Aliena nobis, nostra plus aliis plaent (Seneca, "Về sự tức giận");