Vua đầu tiên của nước ta là gì

  • Giáo dục
  • Trắc nghiệm

Thứ năm, 28/12/2017, 19:00 (GMT+7)

Lý Nam Đế tên húy là Lý Bí hoặc Lý Bôn. Có nhiều giả thiết về quê hương của ông, người cho là Thái Bình, người cho Sơn Tây (Hà Nội), hay Thái Nguyên. Kỷ niệm 1.470 năm khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ, ngày 6/10/2012 tại Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức hội thảo khoa học "Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế" với sự tham dự của đông đảo các nhà sử học, nhà khoa học.

Dựa trên cơ sở tư liệu điền dã thực địa ở các vùng xã Tiên Phong (Phổ Yên, Thái Nguyên), Thái Thụy (Thái Bình), kết hợp với thần tích, truyền thuyết… còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá (Hoài Đức, Hà Nội), các nhà khoa học đưa ra kết luận Lý Nam Đế có quê gốc ở xã Tiên Phong (Thái Nguyên).

Ông là con của một hào trưởng nhưng sớm mồ côi cha mẹ nên được một thiền sư đưa về chùa nuôi dạy. Lý Bí vì thế trở thành người học rộng, hiểu sâu, thiên tư lỗi lạc, có tài văn võ. Ông làm quan dưới thời nhà Lương (triều đình phương Bắc), nhưng bất bình với sự cai trị tàn ác nên bỏ mũ áo, mưu việc dấy binh.

"Vua bấy giờ làm chức Giám quân ở châu Cửu Đức (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), nhân liên kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Có Triệu Túc tù trưởng ở Chu Diên (thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay) phục tài đức của vua, bèn dẫn đầu đem quân theo về. Thứ sử Giao châu là Lâm Vũ Hầu Tiêu Tư biết việc, đem của đến hối lộ cho vua, rồi chạy về Quảng Châu. Vua ra chiếm giữ châu thành (tức là Long Biên)", Đại Việt sử ký toàn thư viết.

Năm 542, nhà Lương cho quân sang xâm chiếm, Lý Bí lãnh đạo quân tướng đánh đuổi khiến chúng "10 phần chết đến 6-7 phần, quân tan rã mà về". Năm 543 vua Lâm Ấp (tiền thân của nhà nước Chămpa) đưa quân xâm lấn lãnh thổ, bị quân tướng của Lý Nam Đế đánh tan. 

Toàn bộ đất Giao Châu (gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay và một phần đất Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc) đều thuộc quyền kiểm soát của nhà tiền Lý.

"Năm 544, mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu, đóng đô ở Long Biên, dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội", sách Đại Việt sử ký toàn thư chép. Triều đình nhà Tiền Lý có hai ban văn và võ. Tướng Phạm Tu đứng đầu hàng quan võ, Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn. Triệu Quang Phục (sau này là Triệu Việt Vương) làm Đại tướng dưới thời Lý Nam Đế. 

"Lý Bí - Lý Nam Đế là hoàng đế đầu tiên của nước ta. Ông lập một triều đình riêng là sự khẳng định chủ quyền độc lập, bền vững muôn đời của dân tộc ta. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, người Việt tự xây dựng cho mình một cơ cấu nhà nước mới theo chế độ tập quyền trung ương", sách 54 vị hoàng đế Việt Nam viết.

Câu 2: Quốc hiệu của nhà nước dưới thời Lý Nam Đế là gì?

a. Vạn Xuân

b. Đại Cồ Việt

Hùng Vương và vi vua đầu tiên của nước Việt Nam ta chính là một. Tuy nhiên, điều khẳng định này chỉ nằm ở các văn bản chưa chính thức. Vì trước Hùng Vương còn có Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân cũng được coi là lãnh đạo đầu tiên của nước Việt. Sau này có quan điểm cho rằng, tính cả Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân chúng ta mới có đủ 18 vị.

Có thể bạn quan tâm: Logistics là gì - VIP là gì - KKK là gì

Vậy tại sao chỉ có Hùng Vương được coi là những vị vua đầu tiên?

Câu chuyện bắt nguồn từ huyền thoại, xin nhấn mạnh là huyền thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân kết duyên cùng nhau, đẻ ra trăm trứng sau đó thành trăm con. Ngày xưa trăm có tiếng Hán Việt là bách. Bách Việt cũng có thể liên quan đến truyền thuyết này.

Sau khi sinh con, Âu Cơ và Lạc Long Quân chia tay và mỗi người dắt theo 50 con. 50 con xuống biển theo cha, 50 con lên núi theo mẹ. Người con cả của 100 người con ấy lên ngôi hoặc được sắc phong lên làm vua và lãnh đạo những người con còn lại.

Hùng Vương lên ngôi với quốc hiệu là Văn Lang. Văn Lang được sử gia Việt cho là nhà nước đầu tiên trên thế giới, nhưng xét về tiêu chuẩn nhà nước thực sự, Văn Lang còn thiếu thông tin chính thức về tổ chức hành chính, luật pháp quản lý xã hội. Vì thế, Văn Lang đã là nhà nước hay chưa và nó vận hành như thế nào là một ẩn số vì thông tin quá thiếu thốn trong giai đoạn này.

Vua đầu tiên của nước ta là gì

Hùng Vương tương truyền có 18 đời và danh sách từng tên bao gồm:

1. Hùng Vương thứ 1 húy là Lộc Tục hiệu Kinh Dương Vương.

2. Hùng Vương thứ 2 húy Hùng Hiển, tước Lạc Long Quân, hiệu Sùng Lãm.

3. Hùng Vương thứ 3 húy là Hùng Quốc.

4. – thứ 4 – Hùng Hiệp

5. – thứ 5 – Hùng Hy

6. – thứ 6 – Hùng Huy

7. – thứ 7 – Hùng Chiêu

8. – thứ 8 – Hùng Vỹ

9. – thứ 9 – Hùng Định

10. – thứ 10 – Hùng Vy

11. – thứ 11 – Hùng Trịnh

12. – thứ 12 – Hùng Quỳ

13. – thứ 13 – Hùng Việt

14. – thứ 14 – Hùng Anh

15. – thứ 15 – Hùng Triệu

16. – thứ 16 – Hùng Tạo

17. – thứ 17 – Hùng Nhi

18. – thứ 18 – Hùng Duệ

Về thông tin tổ chức quản lý cả nước, có sách ghi rằng chúng ta có 15 bộ, giống như đơn vị đạo, tỉnh của các triều đại sau này. Tuy nhiên, do không có sự khẳng định chắc chắn nên một số tên bộ của thời Hùng Vương rất giống với tổ chức thời Bắc thuộc. Danh sách 15 bộ bao gồm:

1) Văn Lang (Bạch Hạc, thuộc tỉnh Vĩnh yên) (Theo như truyền thuyết đây là tên cả nước)

2) Châu Diên (Sơn Tây),

3) Phúc Lộc (Sơn Tây),

4) Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang),

5) Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng),

6) Vũ Ninh (Bắc Ninh),

7) Lục Hải (Lạng Sơn),

8) Ninh Hải (Quảng Yên),

9) Dương Tuyền (Hải Dương),

10) Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình),  (Giống thời Bắc thuộc)

11) Cửu Chân (Thanh Hóa), (Giống thời Bắc thuộc)

12) Hoài Nam (Nghệ An),

13) Cửu Đức (Hà Tĩnh),

14) Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị) (Theo sử liệu nhà Chu thì khi vua Hùng tới thăm đã xưng là Việt Thường, chưa rõ đây có phải là tên nước không)

15) Bình Văn (??).

Vậy giỗ tổ Hùng Vương xuất xứ từ đâu và có ý nghĩa gì?

Trước 1917, việc viếng thăm đền Hùng là việc tự phát thường diễn ra vào mùa xuân. Tuy nhiên, do việc lễ lạc và tổ chức khiến cho việc tôn nghiêm bị xao nhãng nên năm 1917, Tuần phủ Phú Thọ ông Lê Trung Ngọc vào năm 1917 (Niên hiệu Khải Định năm thứ nhất) đã làm bản tấu trình lên Bộ Lễ, xin định lệ lấy ngày 10/3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế. Kể từ đó mới có câu cả dao là:

Và lẽ đương nhiên, câu ca dao mà ta tưởng là có lâu rồi, thật ra là mới có từ đầu thế kỷ 20.

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm

Hẹn gặp lại các bạn ở bài viết Trẻ trâu có nghĩa là gì nhé. Hãy theo dõi GGDIC để luôn có thông tin mới mẻ nhé.