Viết bài tập làm văn số 3 lớp 7 văn biểu cảm

Văn tham khảo - Tuyển tập bài viết số 3 lớp 7

Dưới đây là bài tổng hợp viết bài tập làm văn số 3 lớp 7 ngắn. Mời các bạn cùng tham khảo, hy vọng chúng sẽ giúp ích cho các bạn!

I. Đề bài bài viết số 3 lớp 7

Viết bài văn cảm nghĩ về mẹ.

Dàn bài:

1. Mở bài:

Giới thiệu về mẹ em

2. Thân bài:

- Miêu tả về mẹ

- Kể về những việc mẹ làm cho em và lòng biết ơn của em.

- Nêu ý nghĩa về hình tượng người mẹ

3. Kết bài:

Nêu cảm nghĩ của em về mẹ.

II. Bài mẫu tham khảo bài viết số 3 lớp 7

Cảm nghĩ về mẹ

Con lớn dần lên qua từng lời ru của mẹ:

"Mồ côi cha ăn cơm với cá

Mồ côi má lót lá mà nằm".

Xót xa quá phải không mẹ? Suốt 21 năm ròng con phấn đấu vươn lên, bỏ lại sau lưng dấu chấm hỏi về một đấng sinh thành.

mẹ ơi, cho phép con được gọi như thế dẫu chưa một lần con biết mặt mẹ. Nữa tuổi đầu con đã mất mẹ. mẹ không đi về cõi vĩnh hằng, mẹ chỉ đi tìm hạnh phúc ở nơi khác, nơi đó không có bóng dáng và đôi chân bé bỏng của con. Có mẹo giờ mẹ chợt nhớ đến con không, đứa con gái bé bỏng, dại khờ mà ngày mẹ đi vẫn còn ẵm ngửa? Mà nhớ làm gì kia chứ, khi chờ đón mẹ là những lời dịu ngọt và vòng tay âu yếm, vỗ về?

Trong biển cả tình yêu của mẹ, con vẫn thấy thiếu vắng một điều gì đó. Có những chiều con lặng lẽ đi ngang trường mẫu giáo, ngắm những gương mặt ngây thơ bi bô với mẹ chúng sau giờ tan trường. Lòng con bỗng dấy lên niềm ganh tỵ. Nhưng cảm giác ấy qua nhanh, còn lại trong muôn ngàn câu hỏi, không có lời giải đáp. Con cũng từng hỏi cô giáo" Sao con không có mẹ", cô trả lời rằng" Chỉ cần con ngoan, học giỏi, mẹ sẽ về bên con". Háo hức, tin tưởng, con phấn đấu đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp tỉnh để mong mẹ quay về nhưng không, ngày nhận giấy khen, ánh mắt con luôn hướng về nơi xa xăm tìm kiếm một bóng hình. Nhưng không gặp. Niềm tin trong con lung lay. Hay là con chưa ngoan, chưa học giỏi?

Ngày vào đại học, nhìn vào ánh mắt rạng ngời không che giấu được vết chân chim của mẹ, con cảm nhận một nỗi đau. Mười tám năm đằng đẵng chăm chút con thành tài, mẹ một mình bươn trải vượt qua muôn ngàn cay đắng.

Con ước mong một lần được gặp mẹ, dẫu chỉ nhìn thấy con cũng cam lòng. "Lá rụng về cội' mà phải không mẹ? mẹ có mái ấm gia đình riêng, với những lo toan, suy tính, vun vén riêng cho gia đình

mình. Con không trách hờn gì mẹ cả. Con hiểu mà mẹ, quá khứ đã ngủ yên rồi. Con không có quyền khơi lại đống tro tàn. Một ngọn lửa của con, đôi khi đủ sức cháy rụi tất cả những gì mẹ gầy dựng được trong cuộc đời mình. Nấu vậy con sẽ chẳng mẹo giờ tha thứ được cho bản thân mình. Xin mẹ hãy lắng nghe con bộc bạch nỗi lòng, lần đầu tiên và cũng là lần sau cuối. Có đôi lúc, con thèm những lằn roi mạnh mẽ của mẹ, những lời quát mắng khi con làm sai, những cái nhíu mày trước những trò nghịch ngợm của con... thay vì những lời thủ thỉ và giọt nước mắt của mẹ. Nhưng mà những thứ đó không dành cho con, không mẹo giờ. Con có lỗi gì đâu mà đời mẹt công đến vậy?

Ngoại thường mẹo rằng tu trăm năm nên duyên vợ chồng, tu ngàn năm nên nghĩa cha con. Con đang khóc cho kiếp đường tu không trọn vẹn của mình. Con nhớ có lần mẹ kể mẹ cũng như con nhưng mẹ thiệt thòi hơn vì mẹ mồ côi mẹ. Chắc hơn ai hết, mẹ hiểu cảm giác của con lúc này!

Có phải bánh xe lịch sử luôn xoay tròn không mẹ? Một vòng tròn xoay thật ác nghiệt! Con chỉ mong rằng điều này không lặp lại với con- những đứa trẻ ngây thơ là kết tinh của mẹ trong mối tình sau này. Cả tuổi thơ của mình còn đeo kèm giấc mơ, một giấc mơ đằng đẵng nhưng giờ thì tất cả đều tan biến. Con từng căm uất muốn điên lên, muốn lao vào cắn xé người ta khi nghe những lời độc địa" đồ con hoang". Dòng máu nóng ấy vẫn sục sôi trong con khi con vô tình mẹt gặp những đứa trẻ vô tội, là nạn nhân như con ngày nào. Cay đắng và nhục nhã lắm mẹ ơi! Con khóc ròng. Tủi cho thân phận mình và khóc vì sự vô tâm của người đời. Rồi con cũng học được thói quen quên đi, quen thờ ơ với tất cả... tất

cả. Con có thể lừa gạt mọi người với vẻ lạnh lùng chứ làm sao gạt được chính mẹn thân mình, khi trong con, vị trí dành cho mẹ quá lớn? Một tình yêu với người chưa từng gặp mặt dù chỉ một lần nhưng là tình yêu thiêng liêng, ruột thịt- đó là tất cả những gì con muốn nói với mẹ. mẹ ơi, hãy yên lòng, con sẽ chẳng mẹo giờ làm phiền đến mẹ đâu! Con chỉ mong bộc bạch nỗi lòng cùng mẹ, dù con biết mẹ không thể nào đọc được, nhưng để làm gì thì con chẳng biết. Chắc để lòng mình vơi đi... Pháp luật có thể xé tan sự ràng buộc nhưng còn ràng buộc nào cho đạo lí, tình người?

Mỗi lần quả quyết xóa hình ảnh của mẹ, là mỗi lần con đặt dấu chấm vào tim mình. Trải lòng trên trang giấy, con sững người nhìn những dấu chấm nối đuôi nhau thành dài... lửng lơ... Làm người sao khó quá mẹ ơi! Thôi thì hãy cho con một lần được gọi, dù chỉ một lần thôi, hai tiếng thân thương và rất đỗi lạ thường: mẹ ơi!

Giờ ngồi đây nhẫm nghĩ viết về mẹ, một người mà cả cuộc đời hy sinh cho chúng con, và nếu viết hết về mẹ, cũng chẳng có thứ bút mực nào đủ để viết về mẹ bởi " lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào", Và mẹ có biết rằng: "mẹ trong mắt con thật đẹp" bởi từ khi lọt lòng, tôi đã không thể thiếu dòng sữa ngọt ngào ấm áp từ mẹ, tôi có được vòng tay ôm ấp của mẹ, và những lời ru ầu ơi mà ai trng cuộc đời dù ít dù nhiều cũng có được.Và khi lớn lên cái mẹ làm cho tôi không chỉ là vai trò của một người mẹ mà còn là một người luôn lắng nghe tôi, luôn đồng cảm và san sẻ với tôi.Trong con mắt một đứa trẻ, mẹ sinh ra là để chăm sóc tôi.

Xem ngay: 

  •  Từ láy
  •  Viết bài tập làm văn số 1 - Văn tự sự và miêu tả

Trên đây là toàn bộ kiến thức chúng tôi muốn chia sẻ về bài viết tập làm văn số 3 lớp 7, cùng học vui chúc các bạn đạt được điểm số cao!

Đề bài: Cảm nghĩ về người thân (ông, bà, cha, mẹ, chị, bạn, thầy cô giáo).

BÀI ĐỌC THAM KHẢO 

BỐ TÔI

Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Người ta nói: “đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nước nóng hòa muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi ngủ bố rên, rên vì đau mình nhưng cũng rên vì nhức chân. Rượu tê thấp không tài nào xoa bóp khỏi.

Bố đi chân đất, bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước, xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm ngọn cây cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm. Cái thúng câu bao lần chà đi xát lại bằng sắn thuyền. Cái ống câu nhẵn mòn, cái cần câu bóng dấu tay cầm. Con chỉ biết cái hòm đồ nghề cắt tóc xực mùi dầu máy tra tông-đơ, cái ghế xếp bao lần thay vải, nó theo bố đi xa lắm.

Bố ơi, bố chữa làm sao được lành lặn đôi bàn chân ấy: Đôi bàn chân dầm sương dãi nắng đã thành bệnh.

Bố bảo: Bàn chân con phải giữ gìn để mà đi cho thật khỏe, thật xa!

MẸ TÔI

Đôi vai của mẹ thành chai từ bao giờ tôi không biêt.

Trên đôi vai ấy ai để chiếc bánh dầy vào. Bánh giầy màu nâu sẫm, có lúc nứt ra. Cái năm mẹ leo lên núi đánh “đá răm” xuống thuyền cho người ta chở lên tỉnh, ấy là cái năm vai mẹ nứt to nhất mất một lần da, rớm máu, dính cả vào đòn gánh. Con hỏi mẹ, mẹ bảo: “Không đau, nó ê ra rồi”. Mẹ cởi trần, mặc yếm mà gánh. Lưng mẹ hoàn toàn là một bãi xém nồi. Mẹ gánh củi đi bán. Mẹ gánh thóc từ đâu về, suốt đêm xay giã để bán, để lấy tấm mà ăn, lấy cám nuôi lợn. Tháng nào mẹ cũng gánh gạo đi một ngày đường ròng rã đến nơi con trọ học.

Đôi vai ấy, con tin rằng suốt đời mẹ không bao giờ trở lại lành lặn như đôi vai người thường đâu mẹ ạ.

Nhưng chính đôi vai xương xẩu, bé nhỏ mỏng manh ấy lại gánh được bao nhiêu thứ mà người thường không thể gánh nổi.

ANH TÔI

Bàn chân anh không giôốg bàn chân bố, mà lại y hệt bàn chân mẹ. Nó xòe ra từng ngón. Cứ nhìn dấu chân ở ngõ, ở bãi sắn, tôi đoán được là chân anh. Bàn chân anh rất mỏng, năm cái xương của năm ngón nổi hằn lên mu. Mùa hanh, bàn chân anh nứt chằng chịt, rớm máu, anh vẫn phớt lờ. Khi nào đau lắm anh mới chịu chát gio vào, để khô, ra ao lấy rơm vò nát rồi kì. Vết nẻ liền vào được nửa ngày. Anh chạy như bay, hết đánh giậm lại bắt cá. Hết gánh đá lại gánh củi. Hết leo núi lại lội đồng. Anh đá chó dữ bằng đôi bàn chân ấy. Chó chạy bạt vía.

Một chiều, anh pha tre non để chẻ lạt, nhỡ tay, con dao bập một nhát chéo qua bàn chân phải, máu chảy đầm đìa. Anh phớt tỉnh đi vào nhà dít thuốc lào, mạng nhện, rồi xé vải đụp để băng. Dấu bàn chân đỏ lòm từ sân vào nhà.

Từ đấy, bàn chân anh có vết dao chéo dẫm lên các nẻo đường. Anh đi đánh giặc. Chân đất mà coi thường cả chông, coi khinh cả gai.

EM TÔI

Nó sang ở nhà bà ngoại. Nó về chơi. Mới đến cổng là nó đã hát. Mỗi lần nó hát một bài mới. Lúc thì sa mạc, lúc thì trống quân, lúc thì cò lả, lúc thì hát ví nhưng nhiều nhất là giọng quan họ. Nó khoe mợ Nam dạy hát, dì Thường dạy hát. Miệng nó hát, tay nó ôm mấy cuộn lá dứa. Lá dứa về chiều bao giờ cũng ngọt lừ. Anh em tôi quây quần tước lấy lõi ăn “tiệc”, Lúc nó đi, tôi nhớ, cầm cái tay mũm mĩm bé bỏng ấy tôi cắn khẽ. Cổ tay nó thơm thơm.

Một hôm, nó đùng đùng bỏ nhà bà ngoại về. Nó mặc quần cộc rách. Tay nó không thơm nữa. Suốt ngày lấm láp, trơ những xương là xương. Thế mà nó cứ hát cả ngày. Nó tha thẩn khi thì gôc đu đủ, khi thì gốc vối già, khi thì gốc mít. Nó hát hay lắm: “Con cò là con cò kì. Ăn cơm nhà dì uống nước nhà cô”.

Nó toàn chơi một mình. Tôi ngủ, nó vẫn hát nỉ non ở sân, ở góc vườn.

“Mẹ ơi đừng đánh con đau

Con đi bắt ốc, kiếm rau mẹ thì...”

Rồi một hôm nó đi đâu, đến cuối buổi nó lê về, bàn chân đầy máu. Nó lăn ra góc sân. Một mảnh sành cứa toác ngang bàn chân, rỏ cua được dăm con. Nó không khóc. Vừa được buộc chân xong, máu vẫn chảy ri rỉ, Nó lại hát...

* * *

Có gì đâu? - Miếng bánh đa của nó đã bẻ, tôi lại bẻ trộm của nó một nửa...

Có gì đâu? - Chén ngô rang, anh Thả lấy của nó vài hột. Có gì đâu? - Bát cơm, anh Thả đơm cho nó nhiều sắn quá...

Mỗi lần thế, nó lăn đành đạch ra đất. Nó khóc rất lâu, không ai dỗ được, cả xóm đều nghe thấy, khóc như xé vải, khóc đứt ruột. Nó luôn luôn bị bệnh ho gà. Càng khóc nó càng bị ho. Có lúc cơn ho làm lặng đi rất lâu. Nó lăn cạnh mâm cơm, mèo chó dạt đi. Bố hiền thế mà bố phải rút cái roi. Bố đánh. Bố giận quá bố đánh đau lắm. Khi lưng anh ta, mông anh ta đầy những vết lằn ngang, lằn dọc anh ta mới chịu ngồi dậy. Nó rất dạn đòn. Nó nín vì quá mệt rồi. Tôi và cơm cho nó. Nó vừa ăn vừa nấc. Nước mắt rỏ ròng ròng. Bát cơm chan nước mắt. Nước mũi, nước dãi cũng thi nhau rỏ vào cơm. Nó cứ ăn, cứ nấc.

- Ăn xong, nó cứ trần truồng đi xiêu vẹo ra cổng. Chơi chán, nó lại lảo đảo về. Biết nó hay hờn dỗi mà cả nhà khó tránh quá!

Tôi cứ nghĩ bụng: đến bao giờ thì em hết ức, hết hờn?

(Duy Khán - Trích trong “Tuổi thơ im lặng”)

THẦY TÔI

Năm đó tôi rời khỏi làng quê ra thành phố Hội An để tiếp tục việc học.

Ở lứa tuổi mười bốn, trình độ văn hóa lớp chín, nhờ sự giới thiệu của một người bạn học, tôi được vào “dạy kèm” cho một gia đình giàu có. Hằng ngày ngoài việc dạy kèm cho bốn cô cậu ấm học từ lớp một cho đến lớp bảy, tôi còn phải vác gạo, khiêng muối, ghi hóa đơn, tính sổ.

Những lúc quá nhớ nhà, quá tủi thân, tôi lại tìm đến căn phòng trọ của thầy tôi. Ở đấy, tôi có thể ngồi hàng giờ bên thầy, có thể tìm đọc những sách báo tôi rất mê mà không có tiền để mua. Chỉ những lúc đó, tôi mới tìm lại được một chút không khí gia đình, một chút tình thương, một chút an ủi mà tôi sớm bị đánh mất.

Tôi còn nhớ có một buổi chiều se lạnh, sau khi đã mệt mỏi với những trang sách vô tư, thầy trò tôi bèn rủ nhau đi dạo phô. Không khí tưng bừng của phố xá những ngày cuối năm chuẩn bị đón Noel làm cho thầy trò tôi cảm thấy cô đơn thêm, vì thế thầy bẽn dẫn tôi vào Khổng miếu để chơi.

Sau khi ngồi dưới chân tượng Khổng Tử, hai thầy trò tôi đều yên lặng theo đuổi những ý nghĩ riêng tư. Bỗng thầy tôi đưa tay vào túi áo rút tờ giấy bạc hai trăm đồng còn mới nguyên, chưa có nếp gấp, nhẹ nhàng bỏ vào túi áo của tôi. Tôi ngước lên nhìn thầy định từ chối vì biết rằng thầy cũng rất nghèo. Tôi thấy thầy đưa tay chận nắp túi áo tôi như thầm bảo: “Hãy đừng nói gì cả”. Trên môi thầy nở nụ cười hiền lành với một chiếc răng khểnh rất dễ thương. Còn tôi không sao ngăn được hai giọt nước mắt cứ lăn dài xuống má.

Cuộc đời trớ trêu dẫn tôi vào trường sư phạm để rồi trở thành một thầy giáo. Mỗi lần trời trở rét, mỗi lần lĩnh lương có tờ giấy bạc còn mới tôi lại nhớ đến thầy, nhớ  nụ cười thật hiền với chiếc răng khểnh dễ thương của thầy tôi vào một buổi chiều xa lắc xa lơ trong, quá khứ mù sương của tôi.

(Theo Lê Thế)

Video liên quan

Chủ đề