Vì sao nói quảng nam hay cãi

Dưới đây là một số ý kiến:

* Tôi có chồng người Quảng Nam, tính cách chồng tôi rất giống với những gì mà ông Vũ Đức Sao Biển viết về người Quảng Nam trong loạt bài nói trên. Anh sống chân chất, thật tình, hết lòng yêu thương vợ con và đặc biệt là rất hay cãi.

Tất nhiên là tôi hài lòng về ông xã, nhưng thú thật nhiều lúc tôi và bà con họ hàng bên tôi cảm thấy bực mình về tính hay cãi của ông xã tôi.

Nhiều lúc mọi người đang nói chuyện phiếm, tán gẫu, không khí gia đình đang vui vẻ, bỗng dưng ông xã tôi lại bắt bẻ, sửa lưng hoặc cãi lại một ý nào đó làm mọi người bị “sượng”, không khí mất vui. Hoặc đôi lúc ông xã tôi cũng hay hỏi vặn vẹo chuyện nọ chuyện kia (mặc dù trong thâm tâm anh không có ý gì xấu cả), làm bà con, họ hàng tôi - những người chưa hiểu rõ về con người của anh ấy - trách móc, giận dỗi.

Tôi ước giá như ông xã tôi bớt cãi một chút, nhất là đối với những việc không quan trọng, không ảnh hưởng gì đến bản thân, gia đình, không gây hại cho ai thì chắc mọi chuyện sẽ rất tuyệt vời.

* Tôi là người Quảng Nam, hiện đang sống và đã có hộ khẩu tại TP.HCM 14 năm rồi. Chính vì cái đặc tính “Quảng Nam hay cãi” mà ông chú bà con rất gần với tôi từ chối nhận tôi vào làm việc tại công ty của ông.

Chú tôi rất giàu, ông có nhiều công ty nhưng rất “kỵ” sử dụng người quê ở Quảng Nam, mặc dù chú tôi cũng là dân Quảng Nam! Bị liệt vào thành phần “hay cãi” nên dẫu có bằng đại học hẳn hoi, tôi vẫn phải tự thân vận động, tự tìm việc mà làm chứ chú tôi không hề động lòng, ra tay giúp đỡ...

Nhưng cũng vì cái bất công ấy, tôi đã đi làm cho công ty nước ngoài và người chủ nước ngoài rất thích tính khí của tôi: “Thấy sai cãi liền, không dạ dạ vâng vâng”.

* Tôi là người Quảng Nam. Đọc loạt bài nói trên, tôi nhớ chuyện hồi năm 1990 tôi nộp đơn xin học tại chức tại khoa luật (Đại học Tổng hợp TP.HCM). Khi nghe tôi nộp đơn vào đây, anh bạn tôi bảo: “Mày thuộc diện ưu tiên xét đơn”. Tôi hỏi ưu tiên gì thì bạn trả lời: “Diện ưu tiên năng khiếu vì ngành luật đào tạo thầy cãi thì phải ưu tiên cho dân “Quảng Nam hay cãi” chứ”.

Bị anh bạn nói xỏ nhưng ngẫm lại tôi thấy anh nói đúng thiệt. Tôi biết trong giới luật sư, nhà báo có rất nhiều người là dân Quảng Nam.

* Xung quanh chuyện cãi của người Quảng Nam, bạn tôi - một luật sư đang hành nghề tại TP.HCM - kể rằng có một luật sư đàn anh khi in danh thiếp luôn mở ngoặc ghi thêm “người Quảng Nam”. Bạn tôi bình luận: “Đã là luật sư, mà là người Quảng Nam thì cãi dữ lắm!”.

* Tôi là người Đông Nam bộ, sống ở Sài thành, nơi mọi người thường không thích xen vào việc của người khác hoặc việc chung. Người xưa có câu: “Thần khẩu hại xác phàm”, theo cách hiểu của tôi thì cha ông ta có ý khuyên bảo nên khéo léo trong đối nhân xử thế.

Hiển nhiên người xưa có thâm ý của họ. Nhưng dần dà tôi cảm thấy bản thân và nhiều người xung quanh ít cãi và cũng không dám lên tiếng phản đối những chuyện bất bình trong xã hội.

Lấy ví dụ như việc Vietnam Airlines thường xuyên thông báo ở phòng chờ là máy bay sẽ khởi hành trễ (từ 30 phút đến vài giờ) với lý do máy bay về trễ. Tôi chẳng thấy ai có phản ứng, thế là coi như không có chuyện gì. Hoặc tiểu thương chợ Bến Thành bán bánh mứt ngoại không rõ thành phần hóa chất nhưng lại lừa người mua là hàng VN. Báo chí phanh phui được vài ngày, sau đó thì đâu lại hoàn đó.

Nhìn sang những nước phát triển hơn ta, phản đối trước việc bất bình thường được xã hội ủng hộ và tôn trọng. Chỉ khi chúng ta dám suy nghĩ, dám nói, dám cãi, dám hành động quyết liệt với sự ủng hộ của đại đa số quần chúng thì những chuyện xấu, những việc bị ém nhẹm, những điều bất bình... mới có cơ hội bị vạch trần và xóa bỏ.

* Người Quảng Nam cãi bằng lý lẽ, bằng chính sự thông minh, hóm hỉnh của mình. Cãi ở đây là để bảo vệ các đúng, cái ngay, cái chính nghĩa chứ không phải cải bằng lý sự cùn, cãi một cách ngoan cố. Trong cái lý lẽ dùng để cãi của người Quảng Nam luôn mang đậm nét đặc trưng rất Quảng: ăn ngay nói thật.

Nói để chứng minh cái đúng của mình, cãi để bảo vệ điều đúng nhưng sau đó không bao giờ để bụng, bởi đơn giản người Quảng không có tính giận dai, giận lâu. Giận đó nhưng cười đó, vui vẻ đó thậm chí còn thân thiết hơn lúc chưa cãi bởi theo họ có cãi như vậy mới hiểu được nhau hơn... Đúng không rứa hè?

* Trong lịch sử, những nhà tiền bối lý giải rằng do phong thổ và nguồn gốc của người Quảng di cư từ miền Bắc vào nên mới tạo ra tính cách hay cãi đó. Theo tôi nghĩ lí giải đó chỉ đúng một phần thôi. Người Quảng hay cãi vì họ yêu sự công bình, yêu chân lý.

Phan Chu Trinh rất hay cãi mà đỉnh cao nhất chính là tư tưởng cải cách của ông. Người Quảng rất thích cãi chứ không phải là cãi bừa, cãi bậy, cãi bướng đâu.

* Không biết tính hay cãi của người Quảng Nam là xấu hay tốt. Tôi cũng là người dân xứ Quảng và đôi lúc cảm thấy cãi thì cũng không hay lắm. Nhưng nhiều chuyện mà thấy người khác sai mà không cãi là không được. Nhiều khi cãi chẳng được gì nhưng vẫn cãi, cãi để thấy được cái đúng, cái sai của người khác để cùng nhau hoàn thiện.

"Quảng Nam hay cãi ", câu này có từ lúc rất lâu đời, cãi thường đi đôi với lý sự nên cũng có câu "lý sự quá Phan Khôi" - Phan Khôi sinh tại Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam là cháu của Hoàng Diệu là nhà văn, nhà báo viết về các chủ đề hiện thực trước 1945.

Phải chăng trong ông cũng có dòng máu xứ Quảng nên mới hay cãi như vậy

* Tôi thật ra không phải người gốc Quảng Nam, nhưng cũng mang trong mình thuộc tính "hay cãi" nhất là cãi với cấp trên, cãi lệnh nếu thấy lệnh "bất minh" làm ảnh hưởng đến nhiều người. Sau khi về hưu tôi ngẫm đời như thế chỉ toàn gặp thua thiệt, bị đì không ngóc đầu nổi. Nhưng tôi chẳng có gì để tủi hổ hay tiếc rẻ ân hận cho mình, có chăng chỉ tiếc cho đời rằng: Lời thật và lời thẳng có rất ít, quá ít người chịu nghe.

"Người hay cãi" họ vẫn biết rõ rằng cãi thì có hại cho riêng mình nhưng nếu có thể làm lợi cho nhiều người thì họ vẫn cứ cãi. Họ vẫn sẵn sàng và vui lòng gánh hậu quả. Đó là họ thành thực với chính mình rồi! Ít ra họ cũng còn thấy mình vẫn hiên ngang chịu "cái khổ biết trước".

* Tôi nhận thấy cãi cũng tốt thôi vì cãi để mọi người hiểu nhau hơn, công việc tốt hơn và những chuyện khuất tất không xảy ra thì đó là một thắng lợi.

* Bản thân tôi cũng là người Quảng Nam nhưng từ nhỏ sống ở TP.HCM, tôi cũng là dân Luật. Tôi cảm nhận sâu sắc việc hay cãi của người dân quê tôi. Thật lòng mà nói tôi cũng thấy sợ cái tính hay cãi của người Quảng Nam, đôi lúc "cãi" thái quá, có nhiều chuyện không đáng gì nhưng cũng bắt bẻ và cãi rất hăng nên làm tổn thương tình cảm đôi bên.

Cãi cũng có mặt tích cực của nó, trong công việc bạn nên phát huy hết khả năng tranh luận của mình để giữ vững lập trường, tranh luận giúp tìm ra phương hướng giải quyết. Nhưng nếu bạn chỉ cãi vì bảo thủ, không muốn người khác cho rằng mình đã sai thì quả thật không thể phát triển được. Đối với những chuyện phím đời thường thì quả thật là người "Quảng Nam hay cãi" do bảo thủ.

* Tranh luận và tranh cãi là hai khái niệm khác nhau. Tranh luận là để tìm ra lý lẽ đúng được nhiều người công nhận và theo hướng mà xã hội mong muốn. Còn tranh cãi thường là lấp liếm, ngụy biện, kiểu cãi cho bằng được, cãi đến khi người khác im thì thôi, mà đôi khi họ im lặng không phải vì lể phục trình độ của bạn, vì tính uyên bác, hùng biện của bạn mà đơn giản chỉ vì "chả dại gì mà gây sự".

Do đó đừng tự hào vì mình là người Quảng Nam theo nghĩa đen "Vì tôi cũng là người Quảng Nam".

NGÂN HOÀNG

Người Quảng Nam dù là dân chữ nghĩa hay nhà nông cũng đều ưa lý sự, gặp chuyện chi cũng cãi hoặc có ý kiến khác. Từ đó hình thành một cốt cách khiến người ta nghĩ tốt về nó cũng nhiều nhưng nghĩ xấu cũng không ít: “Quảng Nam hay cãi”.

Cãi để… đổi mới

Đã có nhiều lý giải về hiện tượng hay cãi của người Quảng Nam. Có ý kiến cho rằng nó xuất phát từ chuyện hai học giả Quảng Nam là Phan Khôi và Huỳnh Thúc Kháng (cùng nhà Nho Ngô Đức Kế) công kích ông Phạm Quỳnh - chủ nhiệm báo Nam Phong - từ năm 1924 đến năm 1930, sau khi ông chủ báo họ Phạm tổ chức đêm suy tôn Truyện Kiều tại hội quán Khai Trí Tiến Đức ở Hà Nội vào năm 1924. Trong đêm đó, ông Quỳnh diễn thuyết ca ngợi Truyện Kiều là “quốc hoa, quốc hồn, quốc túy”. Bị “đánh” rát, ông Quỳnh chỉ im lặng. Sau khi rời Hà Nội vào Sài Gòn, Phan Khôi khơi lại chuyện cũ, mạnh miệng mắng sự phớt lờ này là “học phiệt”: “Tôi chẳng nói gần nói xa chi hết; tôi nói ngay rằng hạng người học phiệt ở ta chẳng bao lăm người, mà Phạm Quỳnh tiên sinh là một” (Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn, 1930).

Rồi chính hai nhà báo trứ danh người Quảng Nam này khoảng 10 năm sau lại đăng đàn cãi nhau về phong trào Thơ mới. Phan Khôi sáng tác bài “Tình già”, khởi xướng trào lưu thơ mới, chê thơ cũ là “bó buộc và làm mất cả sanh thú”; ngược lại, nhà Nho chí sĩ họ Huỳnh thì mạt sát Phan Khôi. Cuộc bút chiến của hai cây viết đất Quảng diễn ra trên nhiều tờ báo, tập trung sự chú ý lớn của giới học thuật từ những năm 1941 trở đi. Đây là một căn cớ để lý giải vì sao “Quảng Nam hay cãi”.

Ý kiến khác dựa vào chính sử, được cho là lý giải xác đáng hơn. Cụ thể, nhiều bản của Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn đúc kết các đặc tính của người Quảng qua thực tế. Ví dụ, bản in vào triều vua Duy Tân đánh giá: “… sĩ phu có khí tiết cứng cỏi bạo nói, nhưng vì thổ lực không hậu mà thế nước chảy gấp nên tính người hay nóng nảy, ít trầm tính, duy có người nào có học vấn uyên thâm mới không bị phong khí ràng buộc”. Phải chăng những đúc kết ấy chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phong trào Duy Tân (1906-1908) do chí sĩ đất Quảng Nam Phan Châu Trinh khởi xướng, trong đó có cuộc đấu tranh đòi giảm sưu thuế ở Trung Kỳ (1908) làm rúng động chính phủ bảo hộ (Pháp) và chính phủ bù nhìn Nam triều lúc bấy giờ?

Khởi nguồn từ Đại Lộc (Quảng Nam), những cuộc tranh luận nảy lửa giữa người dân xứ Quảng với các quan Tây và tri phủ, đề đốc tay sai người Việt… được nhiều chứng nhân - trong đó có cả người Pháp - ghi chép, kể lại trong một số tài liệu, rất thú vị. Phong trào này được xem là một cuộc dân biến lịch sử, lan ra 10 tỉnh, từ Bình Thuận đến Thanh Hóa, dù bị người Pháp điều binh đàn áp đẫm máu, nhiều chí sĩ bị hành quyết và rất đông người dân bị tra khảo song chẳng thể khuất phục ý chí sắt đá của con người xứ Quảng: không chịu im lặng trước bất công, không cúi đầu trước bạo quyền; phải lên tiếng đấu tranh, phải hành động đòi lại công bằng.

Cái sự “cãi” ấy chẳng phải cãi chày cãi cối hay lý sự cùn mà rất đáng trọng. Ngẫm suy, nó chỉ nhằm mục đích dân chủ và đổi mới. Cãi mới đem lại sự dân chủ. Có “đấu” thì mới làm nên cuộc duy tân, cải cách. Giữa bối cảnh đất nước tối tăm vì bị đô hộ, người dân lầm than dưới ách thực dân, Phong trào Duy Tân của cụ Phan Tây Hồ hướng tới hiện thực hóa những mục tiêu cao cả: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Mở mang dân trí, xây dựng xã hội dân chủ để tiến tới tự cường rồi tự chủ, độc lập, ấm no, há chẳng phải là tư duy đổi mới quá sâu sắc hay sao?

Tư tưởng thời đại, sống mãi

Trong huyết quản của người Quảng Nam, tinh thần phản biện và tranh đấu luôn tuôn chảy. Nó được thể hiện bằng nhiều cách và chắc chắn có sự ảnh hưởng lẫn nhau, truyền thừa cho nhau: thế hệ sau theo thế hệ trước, con cháu học hỏi ông cha, học trò nối bước người thầy.

Tiêu biểu của sự truyền thừa này là hai tên tuổi lừng lẫy cùng quê Điện Bàn: Phạm Phú Thứ (1821-1882) và Hoàng Tụy (1927-2019). Dẫu sống cách nhau cả thế kỷ, thời cuộc cũng rất khác nhau nhưng hai ông có điểm chung: tài giỏi, thẳng thắn, yêu nước.

Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với nhiều điều khoản thất thế cho triều Nguyễn, năm 1863 vua Tự Đức phái đại thần Phan Thanh Giản làm chánh sứ sang Pháp xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Phạm Phú Thứ được cử làm phó sứ đi cùng. Ông sang trời Tây không chỉ để thương lượng mà còn chủ động tìm hiểu, học hỏi, ghi chép rất nhiều thứ tiến bộ của họ.

Năm 1864, sứ bộ về nước, Phạm Phú Thứ soạn và dâng lên nhà vua biểu tấu, thúc giục sớm cải cách, học tập và phát triển công nghiệp theo cách thức của Pháp và Y Pha Nho (Tây Ban Nha). Hai cuốn “Tây hành nhật ký” và “Tây phù thi thảo” ông trình cho vua Tự Đức trong đó ghi chép những điều mắt thấy tai nghe về cách làm tiến bộ và thành quả tân thời của người Âu, khuyến nghị nước Nam ta làm theo.

Tư tưởng và tầm nhìn của Phạm Phú Thứ đã vượt xa tri thức thời đại mà ông đang sống rồi! Chưa cần phải chờ đến khi sang Tây Âu, lúc làm án sát Thanh Hóa, nhà Nho họ Phạm đã kiến nghị vua đóng tàu bọc đồng để phục vụ vận tải thủy và giao thương. Tàu đồng Thụy Nhạc ra đời là nhờ đầu óc Phạm Phú Thứ!

Tròn 140 năm sau kể từ bản trình tấu 1864, một hậu bối Quảng Nam của Phạm Phú Thứ là Hoàng Tụy cũng làm dậy sóng giới trí thức với bài viết thẳng thừng về giáo dục (công bố năm 2004). Lúc này, giáo dục và đào tạo nước nhà đối mặt hàng loạt vấn đề nhức nhối, cấp thiết phải đổi mới. Theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ chuẩn bị một báo cáo đặc biệt về giáo dục đào tạo. Báo cáo này được dự thảo nhiều lần, hầu hết các nội dung và luận điểm trong dự thảo báo cáo đều bị Giáo sư Hoàng Tụy phản biện, bác bỏ. Theo ông, ngành giáo dục chưa dám nhìn thẳng vào thực tế “lay lắt”, thiếu hẳn tư duy đổi mới, sáng tạo và đối diện nguy cơ khủng hoảng kéo dài.

Và 5 năm sau đó (2009), ông tiếp tục có bài viết rất dữ dội “Giáo dục: Xin cho tôi nói thẳng” (1), chỉ rõ thực trạng yếu kém, cảnh báo nhiều vấn đề và đưa ra khuyến nghị rất cụ thể. Ông nêu “thẳng như ruột ngựa”: “Chỉ những ai quá vô tâm với tình hình đất nước mới có thể yên lòng trước tình hình giáo dục hiện nay”(2).

Năm 2019 vừa khép lại, chúng ta chia tay cha đẻ lý thuyết toán học “Tối ưu toàn cục”. Người cháu của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu nối bước tiền nhân đồng hương Phạm Phú Thứ về bên kia thế giới nhưng những “tượng đài hay cãi” đáng kính ấy như vẫn ở lại với chúng ta, tiếp tục được thắp lửa bởi đòi hỏi của thực tế đất nước về công bằng, dân chủ và đổi mới luôn còn đó, mãi thôi thúc thế hệ hôm nay.

Vậy là đã rõ, “Quảng Nam hay cãi” không còn thuần túy là một cốt cách vùng miền, mà cao hơn thế, cãi chính là tranh luận, là phản biện với khát vọng dân chủ, khát vọng đổi mới!

_____________________

(1) và (2): Xin được nói thẳng (Nhà xuất bản Thế giới, 2019,  tr. 123 và tr. 213).