Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, có lịch sử phát triển lâu dài và có nguồn gốc, bản chất xã hội của lao động và sự phát triển văn minh của quan hệ giữa con người với con người. Trong xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển phải có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Rộng hơn, ở phạm vi quốc tế, một quốc gia muốn phát triển phải liên kết với các quốc gia khác. Trong một thế giới hiện đại, sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế. Đây chính là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX cho đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển vượt bậc các lĩnh vực của đời sống xã hội và xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Quá trình xã hội hóa và phân công lao động ở mức độ cao đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia và được quốc tế hoá ngày một sâu sắc. Sự quốc tế hoá như vậy thông qua việc hợp tác ngày càng sâu giữa các quốc gia ở tầm song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu. Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế. Hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các quốc gia tham gia quá trình này cơ bản vì lợi ích cho đất nước, vi sự phồn vinh của dân tộc mình. Mặc khác, các quốc gia thực hiện hội nhập quốc tế cũng góp phần thúc đẩy thế giới tiến nhanh trên con đường văn minh, thịnh vượng. Nhìn tổng thể thì hội nhập quốc tế có ba cấp độ chính là: Hội nhập toàn cầu, khu vực và song phương. Các phương thức hội nhập này được triển khai trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cho đến nay, đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế được triển khai trên 3 lĩnh vực chính gồm: Hội nhập trong lĩnh vực kinh tế (hội nhập kinh tế quốc tế), hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế manh nha từ cổ đại và ngày càng phát triển ở thời kỳ trung đại và hiện đại, văn minh như ngày nay. Thời La Mã cổ đại, khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới đã mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa và áp đặt đồng tiền của họ trong toàn bộ các quốc gia, vùng lãnh thổ nơi bị họ chiếm đóng. Trong thời kỳ phong kiến hay cận đại thì các quốc gia cũng có những hành động mở mang giao thương, buôn bán thương mại với nhau. Sự thông thương trong thời cổ đại và trung đại được minh chứng rõ nét nhất bằng việc hình thành “Con đường tơ lụa” bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Ápganixtan, Cadắcxtan, Iran, Irắc, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, chung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường này cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản có chiều dài khoảng 4.000 dặm (hay 6.437 km). Với việc tồn tại hơn mười thế kỷ, “Con đường tơ lụa” giúp cho giao thương Đông – Tây phát triển rực rỡ được coi là điểm nhấn rõ nét trong lịch sử thương mại thế giới. Hình 1: Biểu đồ về hệ thống “Con đường tơ lụa” - một minh chứng về việc coi trọng phát triển hội nhập quốc tế của người xưa Show Hình 2: Khu vực đồng tiền chung euro, hiện bao gồm 19 quốc gia thành viên sử dụng đồng euro như đồng tiền chính thức (Áo, Bỉ, Síp, Extônia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ailen, I-ta-li-a, Lát-vi-a, Lít-va, Lúcxămbua, Manta, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Xlôvakia, Xlôvênia, Tây Ban Nha) Khu vực Euro: Nguồn: vi.wikipedia.org/wiki/khu_vực_đồng_euro, truy cập ngày 28/9/2018 Thứ bảy, diễn đàn hợp tác kinh tế: Diễn đàn hợp tác kinh tế là hình thức hội nhập kinh tế quốc tế ra đời vào thập niên 80 thế kỷ XX, ví dụ: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM). Các quốc gia tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế không có những cam kết mang tính ràng buộc thực hiện, mà chủ yếu mang tính định hướng, khuyến nghị hành động đối với các quốc gia thành viên. Những nguyên tắc được xây dựng giữa các quốc gia tham gia diễn đàn là linh hoạt và tự nguyện để thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư. Tuy vậy, ngày nay, diễn đàn hợp tác kinh tế cũng có vai trò khá quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế, thương mại cũng như giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội cùng quan tâm của các quốc gia trong một khu vực, duy trì, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong thời điểm xuất hiện những xu thế chống lại toàn cầu hóa gia tăng bảo hộ trong nước. Chẳng hạn, Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC tại Đà Nẵng năm 2017 đã thông qua 04 sáng kiến của Việt Nam, đó là: - Sáng kiến về “Khuôn khổ APEC về tạo thuận lợi cho thương mại điện tử xuyên biên giới" nhằm tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho các giao dịch thương mại điện tử; tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào hệ thống giao dịch thương mại điện tử khu vực và toàn cầu, cũng như góp phần tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư trong khu vực, hướng tới việc hoàn thành mục tiêu Bô-go vào năm 2020; - Khuôn khổ giám sát việc thực hiện Kế hoạch hành động kết nối chuỗi cung ứng giai đoạn 2 (SCFAP 2) từ 2017- 2020, nhằm xác định và giải quyết các rào cản chính đối với chuỗi cung ứng, tạo thuận lợi cho sự lưu thông của hàng hóa và dịch vụ trong toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương. - "Chiến lược APEC về các doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ, xanh, bền vững và sáng tạo", nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ. - “Bộ thông lệ tốt của APEC về thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương", đây là sáng kiến chung của Việt Nam và Nhật Bản nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh trong khu vực và "Sáng kiến về Thúc đẩy các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo" do Việt Nam chủ trì, nhằm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong APEC.Hình 3: Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) Các nền kinh tế thành viên APEC có màu xanh lá cây. 2. Hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh
Thứ ba, phương thức dàn xếp an ninh tập thể là phương thức liên kết quốc phòng – an ninh lỏng lẻo hơn cả với các hình thức đa dạng như đối thoại, xây dựng lòng tin, phòng ngừa và các hình thức khác để xây dựng thói quen hợp tác, ràng buộc lẫn nhau, từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các thành viên. Các hình thức đối thoại, xây dựng niềm tin, như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Các hình thức phòng ngừa tập thể dựa trên nguyên tắc các thành viên cam kết không tấn công nhau, nếu có một thành viên vi phạm, sẽ dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và giải quyết xung đột. Hội quốc liên và sau này là Liên hợp quốc (UN), Liên đoàn Ảrập (AL), Tổ chức thống nhất châu Mỹ (OAS), Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU), Cộng đồng chính trị - an ninh mà ASEAN đang xây dựng là những mô hình cụ thể của phương thức liên kết an ninh tập thể. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh được xác định trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Theo đó, phạm vi hội nhập quốc tế của Việt Nam ở lĩnh vực này là: Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả. Chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia nước ta. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là các nước láng giềng, các nước lớn; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chống tội phạm xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách thức an ninh phi truyền thống khác. Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các cơ chế đa phương khác; trong đó, có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn, như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, kiểm soát phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu ổn định, bền vững. Ngày nay, mặc dù xu thế hợp tác, hội nhập là cơ bản, chủ đạo trong quan hệ quốc tế, nhưng cũng không có nghĩa là không tồn tại các nguy cơ bị xâm lược, đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia. Thực tế trong thời gian qua của Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới đã chứng minh điều này. Do đó, hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh sẽ tăng cường sức mạnh của Việt Nam trong lĩnh vực này. Điều đó, trước hết nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo đảm môi trường hoà bình, ổn định trong nước để phát triển; sau đó, nhằm có đủ năng lực, điều kiện là một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ hoà bình, duy trì ổn định theo các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế. 3. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa- xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác Đây là lĩnh vực lớn bao quát nhiều mặt của đời sống xã hội, xét ở khía cạnh hội nhập quốc tế của lĩnh vực này, nó bao gồm: hội nhập quốc tế về văn hóa-xã hội, hội nhập quốc tế về giáo dục, hội nhập quốc tế về khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác. Hội nhập quốc tế về văn hoá, xã hội có nhiều vấn đề cần lưu tâm. Trước hết, trong lĩnh vực văn hoá, Việt Nam mở cửa, trao đổi văn hóa, chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với các quốc gia khác. Mục đích của hội nhập quốc tế về văn hoá là tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa của dân tộc, quốc gia mình. Hội nhập quốc tế về văn hoá – xã hội có thể thông qua việc tham gia các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa, ví dụ: tham gia, thực hiện Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) hoặc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương về hợp tác, phát triển lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có thể chủ động tích cực tham gia các hoạt động, giao lưu văn hoá, nghệ thuật, thể thao với hình thức song phương, khu vực và thế giới. Qua quá trình hội nhập quốc tế sẽ làm sâu sắc nội dung hợp tác, thực sự gắn kết bền vững giữa các quốc gia, thúc đẩy sự gần gũi hơn về văn hoá, trong khi vẫn giữ được bản sắc riêng về văn hoá của từng quốc gia. Hội nhập quốc tế về văn hoá cũng đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại. Bên cạnh đó, mặt thứ hai liên quan đến các vấn đề về xã hội như: Lao động, việc làm, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khoẻ cho người dân, cộng đồng, bảo trợ xã hội, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo đảm bình đẳng giới và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực xã hội, Việt Nam hợp tác với quốc tế để phát triển, giải quyết tốt. Hội nhập quốc tế giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trong việc thực hiện các vấn đề về xã hội. Hội nhập quốc tế về giáo dục là hiện đại hoá, quốc tế hoá nền giáo dục của quốc gia mình nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Giáo dục – đào tạo ở Việt Nam hiện nay là vấn đề tương đối bức xúc, yêu cầu cấp thiết phải cải cách cơ bản, tìm hướng đi mới để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo ngang tầm quốc tế. Một trong những hướng đi của cải cách giáo dục – đào tạo là hội nhập quốc tế sâu sắc về vấn đề này. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, nhưng vẫn gìn giữ được bản sắc dân tộc trong giáo dục con người Việt Nam với những đặc trưng riêng. Do đó, trong hội nhập quốc tế về giáo dục – đào tạo phải tìm kênh tiếp cận thích hợp, lựa chọn lĩnh vực mũi nhọn, đột phá. Việc hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo có thể thông qua nhiều kênh khác nhau, từ việc ký kết điều ước quốc tế thực hiện hợp tác giáo dục, đến việc trao đổi, tham gia các hoạt động quốc tế khác nhằm nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn giáo dục, đào tạo trong nước. Việc hội nhập phải bảo đảm thực hiện trong tất cả các khâu của giáo dục và đào tạo, đồng thời kiểm tra, đánh giá theo chuẩn mực quốc tế và xây dựng cơ sở vật chất liên quan đến giáo dục, đào tạo theo tiêu chuẩn tốt của quốc tế. Đối với lĩnh vực khoa học – công nghệ, hội nhập quốc tế làm cho lĩnh vực khoa học - công nghệ trong nước tiếp cận, theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới, thông qua đó nâng cao trình độ nghiên cứu, sử dụng thành tự khoa học – công nghệ ở trong nước, rút ngắn khoảng cách công nghệ của Việt Nam so với các quốc gia phát triển, cải thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ của Việt Nam. Hội nhập quốc tế về khoa học - công nghệ có thể thông qua phương thức phát triển quan hệ hợp tác khoa học và công nghệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế và vùng lãnh thổ ở các hình thức khác nhau, trong đó có việc ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, cũng tăng cường ký kết, thực hiện các thỏa thuận, hợp đồng hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, công nghệ với các quốc gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ngoài các lĩnh vực trên, hội nhập quốc tế toàn diện bao gồm cả hội nhập ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: Lao động, y tế, thể thao, v.v.. tạo nên một quá trình tổng thể, thống nhất trong sự mở cửa, hợp tác sâu với quốc tế nhằm tiếp thu những thành tựu, giá trị tốt đẹp trong quá trình phát triển của nhân loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Việt Nam. Trần Anh Tuấn - Vụ Pháp luật quốc tế Toàn cầu hóa mang lại lợi ích gì cho nền kinh tế Việt Nam?Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng giống như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước những hiểm hoạ của thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,… Toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới là gì?Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình tăng cường sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế quốc gia, khu vực và địa phương trên toàn thế giới thông qua việc tăng trưởng và cải thiện của các lĩnh vực kinh tế như sản xuất, thương mại, tài chính và dịch vụ. Tại sao Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế?Hội nhập quốc tế nhằm thiết thực thực hiện mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững và bảo đảm quốc phòng, an ninh; thúc đẩy mối quan hệ biện chứng giữa việc bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển nhanh, bền vững. Quá trình hội nhập quốc tế là gì?Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng ... |