Thực tiễn và chân lý là hai mặt đối lập tồn tại song song trong cuộc sống này. Chân lý là lý thuyết còn thực tiễn là thực hành. Liệu thực tiễn có phải là tiêu chuẩn của chân lý hay không? Lấy ví dụ để làm rõ Thực tiễn là tiêu chuẩn của Chân lý (triết học). Show
Đang xem: Ví dụ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý Lấy ví dụ để làm rõ Thực tiễn là tiêu chuẩn của Chân lý (triết học)Ví dụ bạn thấy có một loại hoa quả mà bạn chưa ăn bao giờ. Bạn muốn biết nó có ngon hay không (đối với bạn mà nói, đây là chân lý). Dù người khác nói nó ngon, nhưng bạn cũng không thể khẳng định là nó ngon được. cách duy nhất để xác định đó là phải nếm thử. (Kiểm chứng bằng thực tiễn) thanhchien3d.vn-chuyên trang trên 95.000+ ý tưởng kiếm tiền, kinh doanh, ý tưởng tạo giá trị, lợi ích —–hoặc—– *** Tìm hiểu thêm Hay khi bạn đói, chỉ nghĩ ăn gì chắc chắn sẽ không thể no được. Phải ăn vào bằng miệng thì mới không cảm thấy đói. Đây chính là chân lý. Chỉ cần ăn là sẽ không đói. Nếu chỉ nghĩ ăn này ăn kia chắc chắn sẽ không bao giờ no được. Đây chính là ví dụ tiêu chuẩn kiểm chứng chân lý của thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm chứng chân lý. Điều này được quyết định bởi đặc điểm bản chất và thực tiễn của chân lý. Các dạng toán để luyện thi kiểm tra về Hàm Hợp17 giờ ago Áo sơ mi của mình bị rộng Vai (Cách sửa như thế nào)17 giờ ago Mình đang ngủ nằm mơ thấy trẻ nhỏ (em bé) đuối nước ý nghĩa gì?2 ngày ago Bộ các câu hỏi về chiến lược giá sản phẩm (luyện thi)2 ngày ago Những sản phẩm đồ uống được làm từ Sữa tươi2 ngày ago Những câu nói bằng Tiếng Anh dùng từ chối tình yêu tế nhị (nhẹ nhàng) 2 ngày ago Chân lý là nhận thức chủ quan phù hợp với nhận thức khách quan. Muốn phán đoán chủ quan có phù hợp với khách quan hay không. Thì phải tiến hành so sánh khách quan và chủ quan. Điều này có nghĩa là, với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý, phải có đặc điểm liên kết giữa chủ quan và khách quan. Lấy ví dụ để làm rõ Thực tiễn là tiêu chuẩn của Chân lý (triết học)Trong phạm vi nhận thức chủ quan của con người, không thể tìm được tiêu chuẩn của chân lý. Chúng ta không thể dung chủ quan để kiểm nghiệm chủ quan. Không thể dung nhận thức để kiểm tra nhận thức. Bản thân sự vật khách quan cũng không thể trở thành tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Bởi sự vật khách quan không thể đối chiếu nhận thức chủ quan và bản thân nó được. Thực tiễn là những thứ vật chất nhìn thấy từ tinh thần, khách quan nhìn thấy từ chủ quan. Thực tiễn ngoài ưu điểm có tính phổ biến, còn có ưu điểm mang tính hiện thực trực tiếp. Hiện thực trực tiếp là chỉ thực tiễn có thể chuyển đổi nhận thức chính xác thành hiện thực trực tiếp. Như vậy, thực tiễn trở thành nhịp cầu giao tiếp trong mỗi quan hệ giữa chủ quan và khách quan. Như vậy, con người trong quá trình thực tiễn, có thể hướng dẫn cải tạo thế giới bằng những nhất thức nhất định. Đồng thời trực tiếp cho ra kết quả hiện thực. Nếu con người đạt được mục đích dự kiến. Chứng tỏ rằng, kiểu nhận thức này phù hợp với quy luật tự nhiên của sự vật khách quan. Và nó là đúng đắn. Ngược lại sẽ là không đúng đắn. Lấy ví dụ để làm rõ Thực tiễn là tiêu chuẩn của Chân lý (triết học)Tính xác định và không xác định của tiêu chuẩn thực tiễn Thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn kiểm chứng chân lý vừa tuyệt đối vừa tương đối. Vừa xác định vừa không xác định. Tính tuyệt đối, tính xác định của tiêu chuẩn thực tiễn được biểu hiện ở: Thứ nhất, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất kiểm chứng chân lý. Thứ hai, nhận thức của con người suy cho cùng đều phải trả qua sự kiểm chứng của thực tiễn. Về lâu về dài, thực tiễn có thể kiểm chứng tất cả mọi nhận thức. Tất cả những nhận thức chính xác cuối cùng đều sẽ được thực tiễn khẳng định. Mọi nhận thức sai lầm cuối cùng đều cũng sẽ bị thực tiễn lật đổ. Xem thêm: Iphone Đổi Bảo Hành – Chưa Active Là Gì, Iphone Đổi Bảo Hành Chưa Active Là Gì Tính tương đối, tính không xác định của tiêu chuẩn thực tiễn được biểu hiện ở: Thứ nhất, thức tiễn kiểm chứng nhận thức là một quá trình. Thực tiễn của mỗi giai đoạn lịch sử không thể chứng thực hoặc phản bác tất cả những học thuyết mà thời đại hiện tại chỉ ra. Đồng thời, một nhận thức chính xác nào đó đã được thực tiễn chứng thực, cũng sẽ tiếp tục tiếp nhận sự kiểm chứng của thực tiễn. Thứ hai, thực tiễn là lịch sử cụ thể. Tính chính xác của một loại nhận thức nào đó đã được thực tiễn chứng thực là tương đối và có giới hạn. Lấy ví dụ để làm rõ Thực tiễn là tiêu chuẩn của Chân lý (triết học)Kiên trì sự thống nhất giữa tính tuyệt đối và tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn. Sự thống nhất giữa tính xác định và tính không xác định là phép biện chứng kiên trì chân lý trên các vấn đề tiêu chuẩn. Chỉ nhìn thấy tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn mà phủ nhận tính tương đối của nó. Sẽ khiến tư tưởng của các chủ nghĩa tuyệt đối bị đóng băng, cứng nhác. Chỉ nhìn thấy tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn mà phủ nhận tính tuyệt đối của nó, sẽ dẫn đến thuyết tương đối, thuyết duy tâm chủ quan và thuyết bất khả tri. Tiêu chuẩn thực tiễn và chứng minh lô gíc Chứng minh lô gíc có vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức: Một là cung cấp lý luận chỉ đạo cho thực tiễn, khiến kiểm chứng thực tiễn từ đặc biệt nâng cao đến phổ biến. Thứ hai, cung cấp cơ sở lý luận cho chứng minh thực tiễn. Hiểu biết về bản thân nó và kết quả của nó. Tuy nhiên, chứng minh lô gíc không thể trở thành tiêu chuẩn chân lý thứ hai tồn tại song song với tiêu chuẩn thực tiễn. Nó không thể rời xa thực tiễn. Những quy tắc mà chứng minh lô gíc tuân theo đều sản sinh trong quá trình thực tiễn. Những cơ sở tiền đề mà chứng minh lô gíc căn cứ vào có chính xác hay không, phải nhờ thực tiễn kiểm chứng. Xem thêm: {Top} 10+ Game Xếp Hình Online, Game Xếp Hình Quá trình và kết luật tư duy của chứng minh lô gíc có chính xác hay không, phải quay trở về trong thực tiễn và do thực tiễn tiến hành khâu kiểm chứng cuối cùng.
Ngay từ thời cổ đại, con người đã luôn suy nghĩ tìm lời giải đáp cho câu hỏi chân lý là gì? Vấn đề chân lý là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức. I. Chân lý là gì? Khái niệm về chân lýChân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm. – Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy, chân lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào các yếu tố: + Sự phát triển của sự vật khách quan; + Điều kiện lịch sử – cụ thể của nhận thức; + Hoạt động thực tiễn, và + Hoạt động nhận thức của con người. – Như thế, do sự biến đổi của nhiều yếu tố, một “thông tin” hôm nay có thể được gọi là chân lý, nhưng thời gian về sau chưa chắc là chân lý. Ngược lại, một “thông tin” mới phát hiện có thể chưa được công nhận là chân lý, nhưng về sau có thể được gọi là chân lý. Như Lênin đã nhận xét: Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình. Tư tưởng (= con người) không nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động. II. Các tính chất của chân lýMọi chân lý đều có tính khách quan, tính cụ thể, tính tuyệt đối và tính tương đối. Điều này thể hiện như sau: 1. Tính khách quan của chân lý (hay: chân lý là khách quan)– Nghĩa là, tuy chân lý là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó không phụ thuộc vào con người. Ví dụ: + Trái đất xoay quanh mặt trời: Đây là chân lý khách quan dù con người đã nhận thức được hay chưa. + Khủng long là loài động vật xuất hiện trên trái đất trước loài người. – Chủ nghĩa duy vật có quan điểm mang tính nguyên tắc là thừa nhận chân lý khách quan. Nếu phủ nhận chân lý khách quan thì nhất định sẽ dẫn tới thuyết không thể biết và chủ nghĩa chủ quan. – Chủ nghĩa duy vật biện chứng nhấn mạnh tính khách quan của chân lý có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới và sự phản ánh thế giới đó vào trong bộ óc con người. Nội dung mà chân lý phản ánh thuộc về thế giới khách quan. Chân lý chỉ có ở con người, nhưng nội dung của chân lý lại không lệ thuộc vào con người mà chỉ lệ thuộc vào sự vật khách quan được chân lý đó phản ánh. 2. Tính cụ thể của chân lý (hay: chân lý là cụ thể)– Điều này nghĩa là không có chân lý trừu tượng, mơ hồ. Chân lý đạt được trong quá trình nhận thức bao giờ cũng gắn liền với một lĩnh vực cụ thể của hiện thực, và được phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó. – Chân lý là cụ thể bởi vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ cũng tồn tại một cách cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn với điều kiện lịch sử – cụ thể. Nếu thoát khỏi điều kiện lịch sử – cụ thể, thì cái vốn gọi là chân lý sẽ không còn là chân lý nữa. – Nguyên lý tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và thực tiễn.Nguyên lý này đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, đánh giá sự vật, sự việc, con người. Do đó, Lênin đã khẳng định: “Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải chú ý đến điều kiện lịch sử – cụ thể của từng quốc gia, dân tộc, từng địa phương khi vận dụng lý luận chung, sơ đồ chung, phải biết cụ thể hóa, cá biệt hóa vào cho cái riêng. Phải hết sức tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc. Đối với Việt Nam, chúng ta phải nghiên cứu, hiểu rõ điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước để vận dụng sáng tạo. Trung thành với chủ nghĩa mác – Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của nó và biết vận dụng đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta. Cả chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đều xa lạ với chủ nghĩa Mác – Lênin. 3. Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lýNhư đã phân tích, con người đạt tới chân lý trong quá trình vận động vô tận của nhận thức thế giới khách quan với cả một chuỗi những sự trừu tượng, những sự hình thành các khái niệm, quy luật. Những khái niệm bao quát một cách tương đối, gần đúng những quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động và phát triển, tạo nên một bức tranh khoa học về thế giới khách quan. Nhưng con người nhận thức chân lý khách quan như thế nào? Có thể nhận thức được một cách tức thời, toàn bộ, tuyệt đối, vô điều kiện hay chỉ gần đúng, có điều kiện? Trả lời câu hỏi đó tức là phải xem xét quan hệ giữa tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý. Ở đây, ta có chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối. Mối quan hệ giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa quá trình vô tận của sự nhận thức thế giới khách quan với khả năng, kết quả nhận thức có hạn ở từng thời điểm cụ thể của lịch sử nhận thức. 3.1. Chân lý tương đối là gì?Chân lý tương đối là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ sung, điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức. Ở chân lý tương đối, sự phản ánh hiện thực khách quan bị giới hạn ở những mặt, những bộ phận nhất định và bị chế ước bởi điều kiện lịch sử. 3.2. Chân lý tuyệt đối là gì?Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì theo bản chất của nó, tư duy con người có thể cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý của mọi định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy theo sự tăng tiến của tri thức. Sở dĩ như vậy vì thế giới khách quan là vô cùng tận, nó biến đổi, phát triển không ngừng, không có giới hạn tận cùng, còn nhận thức của từng con người, từng thế hệ lại luôn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử khách quan và bởi năng lực chủ quan. Việc thừa nhận tính tương đối của chân lý không loại trừ việc chấp nhận, dù là chút ít, chân lý tuyệt đối. Trong tính tương đối đó vẫn chứa đựng một phần, một yếu tố của chân lý tuyệt đối. Phải chăng sự phân biệt giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối là không xác định?Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nó vừa đủ “không xác định” để ngăn ngừa khoa học trở thành một giáo điều theo nghĩa xấu của từ đó. Nhưng đồng thời lại vừa đủ “xác định” để phân rõ ranh giới dứt khoát với chủ nghĩa tín ngưỡng và thuyết bất khả tri, với chủ nghĩa duy tâm và thuyết ngụy biện. 3.3. Quan hệ biện chứng giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối:– Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối đều là chân lý khách quan. Khi thừa nhận chân lý là khách quan, là sự thống nhất giữa hai cấp độ tuyệt đối và tương đối, thì điều đó cũng có nghĩa chân lý là cụ thể. – Chân lý tương đối bao giờ cũng chứa những yếu tố là chân lý tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối được hình thành từ các chân lý tương đối, có sự bổ sung các chân lý tương đối. – Sự khác biệt giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối không phải ở bản chất mà là ở mức độ phù hợp của chúng với khách thể được phản ánh. Mức độ hay ranh giới giữa chúng bao giờ cũng tồn tại nhưng không ngừng được xóa bỏ và được xác lập. III. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn– Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Chỉ nhờ vào thực tiễn và trên cơ sở thực tiễn ta mới phân biệt được chân lý và sai lầm. – Thực tiễn có vai trò như vậy vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là hiện thực trực tiếp. Nhờ đó, thực tiễn có thể “vật chất hóa” được tri thức, biến tri thức thành những khách thể xác định, cảm tính trong thế giới khách quan. – Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất. Tương đối vì thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển, do đó cần có sự bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó. 8910X.com Xin mời các bạn đưa ra một vài bình luận để bài viết có thể hoàn thiện hơn. Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé! Bài liên quan: |