Tiêu chí đánh giá chất lượng vbpl năm 2024

Những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng văn bản pháp luật

Văn bản, với tính cách là phương tiện quan trọng để cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật trao cho, chỉ phát huy giá trị tích cực khi được ban hành có chất lượng cao. Một văn bản (đặc biệt là văn bản pháp luật) không đảm bảo yêu cầu về chất lượng sẽ tác động lớn tới quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể hay Nhà nước là đối tượng điều chỉnh của văn bản đó. Vì vậy, ngay trong quá trình xây dựng văn bản, các chủ thể tham gia vào quá trình này cần phải quan tâm tới những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của văn bản để đảm bảo sau khi ban hành đáp ứng được các tiêu chuẩn đó. Việc đánh giá chất lượng của văn bản vừa phải dựa trên những tiêu chuẩn mang tính khoa học vừa phải dựa trên những tiêu chuẩn mang tính pháp lý. Giữa các loại văn bản (văn bản pháp luật và văn bản hành chính) có nhiều điểm khác biệt cơ bản nên tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của chúng cũng có những nét khác nhau. Trong các tiêu chuẩn sau đây, có những tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá chất lượng chung cho các loại văn bản, có những tiêu chuẩn chỉ được sử dụng đánh giá chất lượng cho văn bản pháp luật. Vì vậy, tuỳ thuộc vào việc chủ thể ban hành loại văn bản nào mà lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá phù hợp cho loại văn bản đó. Thông thường văn bản được coi là có chất lượng khi đáp ứng được các tiêu chuẩn sau: 3.1. Tiêu chuẩn về chính trị. Tiêu chuẩn về chính trị được đặt ra để đánh giá chất lượng của văn bản pháp luật là chủ yếu. Trong xã hội có giai cấp, các đảng phái chính trị luôn muốn thể hiện và khẳng định vai trò và mở rộng sự ảnh hưởng của mình đối với các giai tầng khác. Vì vậy, văn bản (nhất là văn bản pháp luật) luôn mang tính chính trị và phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp thống trị cầm quyền. Xem xét chất lượng của văn bản pháp luật dựa trên những tiêu chuẩn về chính trị là đòi hỏi mang tính khách quan thể hiện bởi hai yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất, văn bản pháp luật phải có nội dung phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng cộng sản. Yêu cầu này được xuất phát từ quy định tại Điều 4 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Đảng cộng sản Việt Nam , đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam , đại biểu trung thành của của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua ba hình thức: đề ra chủ trương, đường lối, chính sách; chế độ cán bộ và hoạt động kiểm tra, giám sát. Trong ba hình thức này, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, chính sách được coi là chủ yếu nhất để trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hoá tạo thành những quy định pháp luật. Như vậy, pháp luật được coi là phương tiện hữu hiệu chuyển tải toàn bộ đường lối của Đảng và đưa đường lối đó vào thực tiễn đời sống. Cho nên, khi đánh giá chất lượng của văn bản pháp luật trước hết phải dựa vào đường lối, chính sách của Đảng làm chuẩn mực chính trị để xem xét nội dung văn bản. Ví dụ: Luật Hải quan được Quốc hội thông qua ngày 29-06-2001(sửa đổi, bổ sung năm 2005) là văn bản quy phạm pháp luật đã thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế đối ngoại đó là tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh…được ghi nhận trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam. Thứ hai, Văn bản pháp luật có nội dung phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân (đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản pháp luật). Yêu cầu này đặt ra nhằm bảo đảm tính khả thi của văn bản pháp luật sau khi được ban hành. Để đáp ứng được yêu cầu này, ngay trong quá trình ban hành văn bản pháp luật, cơ quan soạn thảo phải tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội, công dân cho dự thảo văn bản. Đây là thủ tục bắt buộc khi soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002). Khi soạn thảo Luật quản lý thuế được Quốc hội thông qua ngày 29-11-2006, cơ quan soạn thảo đã tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp cũng như những đối tượng chịu thuế khác. Đây là hình thức thể hiện tính dân chủ trong quá trình ban hành văn bản pháp luật đồng thời còn thu hút trí tuệ tập thể vào

dự thảo văn bản và làm cho văn bản sau khi được ban hành sẽ có nội dung phù hợp với đối tượng thi hành của chính văn bản đó. 3.2. Tiêu chuẩn về pháp lý Đây là tiêu chuẩn bảo đảm tính hợp pháp của văn bản. Dù là cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật hay văn bản hành chính đều phải đáp ứng được các yêu cầu mà Nhà nước đặt ra về tính hợp pháp, biểu hiện cụ thể như sau: Thứ nhất, văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền. Thẩm quyền là tổng thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cá nhân được Nhà nước trao cho nhằm thực hiện chức năng, nhệm vụ, quyền hạn. Như vậy, thẩm quyền của mỗi chủ thể được pháp luật quy định trong những văn bản pháp luật hiện hành. Ví dụ: Thẩm quyền của Tổng cục Hải quan về cơ cấu tổ chức và hoạt động được quy định trong Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày 19-11-2002 của Chính phủ. Còn thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chủ thể: Đội trưởng, Chi cục trưởng, Cục trưởng… trong lĩnh vực Hải quan được quy định cụ thể trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 02-07-2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) …Văn bản được ban hành đúng thẩm quyền khi văn bản đó vừa đúng thẩm quyền về nội dung, vừa đúng thẩm quyền về hình thức. Đúng thẩm quyền về nội dung có nghĩa chủ thể ban hành văn bản giải quyết công việc phát sinh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật cho phép. Ví dụ: Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành quyết định bổ nhiệm Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu quốc tế Tân Sơn Nhất, quyết định này là văn bản được ban hành đúng thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền hình thức được hiểu chủ thể ban hành văn bản với tên gọi theo đúng quy định của pháp luật. Có những trường hợp, người ban hành dễ dàng lựa chọn đúng tên gọi của văn bản để giải quyết công việc thuộc thẩm quyền vì pháp luật đã quy định rõ. Ví dụ: để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, các chủ thể chỉ được lựa chọn duy nhất quyết định để ban hành; để ghi nhận lại và mô tả hành vi vi phạm hành chính của đối tượng vi phạm, người có thẩm quyền phải lựa chọn biên bản. Nếu Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cần chỉ đạo cấp dưới nhưng lựa chọn chỉ thị bị coi là ban hành văn bản trái thẩm quyền về hình thức vì

theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002), thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ không có thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư với tư cách văn bản quy phạm pháp luật. Mặc dù vậy, trên thực tế việc lựa chọn đúng tên gọi văn bản để giải quyết những công việc phát sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng, vì có nhiều loại văn bản không được pháp luật quy định như: công văn, báo cáo, thông báo…, khi ban hành chủ yếu dựa vào tính chất của mỗi loại việc để lựa chọn cho phù hợp. Ví dụ: Chi cục Hải quan cần xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên, lựa chọn công văn đề nghị là phù hợp nhất, cần trình cấp trên đề án công tác hoặc dự thảo văn bản pháp luật, có thể lựa chọn công văn hoặc tờ trình. Nhưng điều quan trọng là khi nào trình cấp trên đề án, chương trình, dự thảo văn bản … bằng công văn và khi nào trình bằng tờ trình, hoàn toàn không có căn cứ pháp lý mà chỉ dựa vào sự hợp lý về khoa học để phân biệt và lựa chọn. Do vậy, khi xem xét tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của văn bản về thẩm quyền hình thức đối với văn bản pháp luật phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật, còn văn bản hành chính đòi hỏi cần có sự linh hoạt và kết hợp với các tiêu chuẩn khác về mặt khoa học. Thứ hai, nội dung của văn bản phải hợp pháp. Văn bản được ban hành đúng thẩm quyền nhưng nội dung không hợp pháp, văn bản đó không thể có chất lượng và cần phải đình chỉ thi hành để cấp có thẩm quyền bãi bỏ hoặc huỷ bỏ. Vì thế, nội dung của văn bản phải hợp pháp là yêu cầu quan trọng về mặt pháp lý mà Nhà nước đặt ra đối với các chủ thể ban hành văn bản. Dù là văn bản pháp luật hay văn bản hành chính thì nội dung của chúng bắt buộc phải đúng với quy định của pháp luật. Tính hợp pháp về nội dung của văn bản được biểu hiện thông qua các yêu cầu cơ bản sau: - Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật quốc gia phải phù hợp với nội dung các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. - Nội dung của văn bản do cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành cấp dưới phải phù hợp với nội dung văn bản của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành cấp trên. Yêu cầu này được đặt ra xuất phát từ mối quan hệ về thứ bậc hiệu lực pháp lý giữa các văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành. Một đạo luật hay pháp lệnh được Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành khó được tổ chức thực hiện trực tiếp trong cuộc sống mà cần tới nghị định của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành, cần thông tư của các Bộ để hướng dẫn, cần tới văn bản của địa phương, đơn vị cấp dưới ra đời để triển khai thực hiện cụ thể… Tương tự như vậy, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 02-07-2002 được ban hành trao cho các chủ thể trong ngành Hải quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, sau đó Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07-06-2007 quy định về xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan, tiếp đó, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 62/2007/TT-BTC ngày 14-06-2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số 97/2007/NĐCP nêu trên, Tổng cục Trưởng Tổng cục Hải quan ban hành công văn chỉ đạo thực hiện… Như vậy, muốn xem xét tính hợp pháp về nội dung văn bản của cấp dưới phải dựa trên cơ sở nội dung văn bản của cấp trên làm chuẩn mực pháp lý. Nếu nội dung của văn bản do cấp dưới ban hành phù hợp với nội dung văn bản của cấp trên có nghĩa văn bản đó đáp ứng yêu cầu tính hợp pháp về nội dung. - Nội dung văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính phải phù hợp với nội dung của văn bản quy phạm pháp luật là đối tượng được áp dụng hoặc triển khai thực hiện. Văn bản áp dụng pháp luật là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật, tức là cụ thể hoá quy phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ thể. Như vậy, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật là chuẩn mực pháp lý để xem xét tính hợp pháp về nội dung của văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính. Ví dụ: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chi cục trưởng Chi cục Hải quan phải có nội dung phù hợp với Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07-06-2007, của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực Hải quan… Thứ ba, Thể thức văn bản phải tuân theo đúng quy định của pháp luật. Đây cũng là một trong những yêu cầu góp phần bảo đảm tính hợp pháp của văn bản. Văn bản được ban hành không chỉ hợp pháp về nội dung mà còn hợp pháp cả về hình thức. Theo quy định của Thông tư liên tịch số 55/2005/NĐ-CP, ngày 06-05-2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và cách thức trình bày văn bản, văn bản được coi là hợp pháp về hình thức khi có đầy đủ các đề mục được trình bày đúng vị trí, loại chữ, cỡ chữ sử dụng... Thứ tư, văn bản được ban hành đúng thủ tục pháp luật quy định. Tuỳ thuộc vào mỗi loại văn bản khác nhau mà pháp luật quy định về thủ tục ban hành cũng như thủ tục quản lý cũng có nét khác biệt. Nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban

hành văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục ban hành phải tuân theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm

  1. và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004. Tổng cục Hải quan mặc dù không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhưng được Bộ Tài chính uỷ quyền soạn thảo quyết định, chỉ thị, thông tư (với tư cách tham mưu) có liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ của ngành Hải quan. Ví dụ: Tổng cục Hải quan được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ soạn thảo Thông tư số 62/2007/TT-BTC, ngày 14-6-2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 97/2007/NĐ-CP, ngày 07-6-2007 về xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết đinh hành chính trong lĩnh vực Hải quan. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, Tổng cục Hải quan phải tuân theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) về các thủ tục: thành lập ban soạn thảo, khảo sát thực tế, nghiên cứu, chuẩn bị đề cương dự thảo, soạn thảo, thảo luận lấy ý kiến đóng góp các đối tượng có liên quan, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản, chuyển dự thảo văn bản tới Vụ Pháp chế của Bộ Tài chính để thẩm định, trình lãnh đạo Bộ Tài chính thông qua, ký và ban hành. Nếu ban hành văn bản áp dụng pháp luật, người soạn thảo phải tuân theo trình tự, thủ tục áp dụng pháp luật được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành. Hiện nay, Nhà nước không có văn bản riêng quy định về thủ tục ban hành văn bản áp dụng pháp luật (kể cả văn bản hành chính). Do công việc phát sinh trên thực tế đòi hỏi văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính giải quyết khá phong phú và đa dạng mang tính đặc thù trong từng ngành, từng lĩnh vực nên không thể có một văn bản pháp luật quy định riêng về thủ tục ban hành nhóm văn bản này như văn bản quy phạm pháp luật. Mặc dù vậy, nhìn tổng thể, các văn bản này đều được ban hành trải qua những bước như: - Xác định công việc phát sinh thuộc thẩm quyền giải quyết của chủ thể nào. Đây là hoạt động đầu tiên có vai trò quan trọng đảm bảo tính hợp pháp của văn bản về thẩm quyền của chủ thể ban hành. - Lựa chọn thể loại văn bản cho phù hợp để ban hành. Có những trường hợp pháp luật đã quy định rõ về thể loại văn bản cần ban hành để giải quyết công việc phát sinh thì chủ thể ban hành phải lựa chọn đúng thể loại đó.

- Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật để giải quyết công việc thuộc thẩm quyền. đây là hoạt động có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo tính hợp pháp về nội dung của văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính sau khi được ban hành. - Soạn thảo hình thức và nội dung của văn bản. -Trình, thông qua, ký và ban hành văn bản. Văn bản không chỉ đúng thủ tục ban hành mà còn phải đúng thủ tục quản lý. Có nghĩa sau khi văn bản được người có chức vụ ký, sẽ chuyển qua văn phòng (hành chính tổng hợp), văn thư vào sổ, đánh số, đóng dấu và sao gửi văn bản tới các đối tượng có liên quan. Hiện nay, thủ tục quản lý văn bản được quy định trong Nghị định số 110/2004/NĐ-CP, ngày 08-4-2004 của Chính phủ về công tác văn thư. Đây là chuẩn mực pháp lý để xem xét tính hợp pháp về thủ tục quản lý văn bản góp phần đảm bảo chất lượng và tính khả thi của văn bản trong thực tiễn. 3.3- Tiêu chuẩn về khoa học Văn bản được coi là có chất lượng không chỉ đáp ứng tiêu chuần về chính trị và pháp lý mà còn đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn về khoa học. Nếu như tiêu chuẩn chính trị nhằm đảm bảo dung hoà lợi ích các giai tầng khác nhau trong xã hội, tiêu chuẩn pháp lý đảm bảo tính hợp pháp thì tiêu chuẩn khoa học đảm bảo tính hợp lý của văn bản. Văn bản được coi là hợp lý và thực sự khoa học khi đáp ứng những yêu cầu sau: Thứ nhất, nội dung của văn bản luôn phản ánh và phù hợp với thực trạng kinh tế, xã hội. Yêu cầu này chủ yếu đặt ra đối với các văn bản quy phạm pháp luật là chính bởi đối tượng điều chỉnh của những văn bản này là quan hệ xã hội tồn tại và vận dộng theo quy luật khách quan. Người soạn thảo đã phản ánh chúng tạo thành những quy định của pháp luật. Nếu sự phản ánh này phù hợp với thực tiễn sẽ có tác dụng thúc đẩy quan hệ xã hội đó phát triển, ngược lại nếu đưa ra quy định của pháp luật cao hơn hoặc thấp hơn so với thực trạng của quan hệ xã hội thì hậu quả là kìm hãm sự phát triển của quan hệ đó và văn bản sẽ không có tính khả thi. Thứ hai, nội dung của văn bản phù hợp với truyền thống đạo đức, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Yêu cầu này thể hiện rõ mối quan hệ giữa pháp luật với quy phạm đạo đức và quy phạm tôn giáo cùng song song tồn tại để điều chỉnh các

quan hệ xã hội.Trong quá trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chủ thể có thẩm quyền phải phản ánh và dung hoà mối quan hệ này trong những quy phạm pháp luật. Còn với văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, chủ thể có thẩm quyền cần có sự sáng tạo linh hoạt trong phạm vi cho phép khi áp dụng pháp luật để vẫn đúng pháp luật nhưng vẫn phù hợp với sự đặc thù của thực tiễn. Ví dụ: Cũng là thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát tình hình buôn bán, vận chuyển hàng lậu qua biên giới, nhưng lực lượng Hải quan ở mỗi địa phương thực hiện hoạt động này có tính đặc thù nhất định, bởi tập quán, thói quen buôn bán ở mỗi địa bàn khác nhau, trình dộ nhận thức của đối tượng thực hiện hành vi này khác nhau, sử dụng các thủ đoạn tinh vi có tính chất khác nhau, vị trí địa lý khác nhau… Vì vậy, trong quá trình thực hiện chức năng kiểm soát buôn bán hàng lậu qua biên giới đòi hỏi lực lượng Hải quan ở mỗi địa phương không được máy móc, cứng nhắc mà cần có sự linh hoạt khi giải quyết công việc cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Đây cũng chính là biểu hiện về sự phù hợp giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Nếu văn bản ban hành thể hiện được mối quan hệ này, có nghĩa văn bản đó sẽ có tính khả thi cao. Thứ ba, văn bản phải được bảo đảm về kỹ thuật pháp lý. Kỹ thuật pháp lý được hiểu là những hoạt động mang tính kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn trong quá trình soạn thảo văn bản, thông thường biểu hiện thông qua hai yếu tố sau: * Sử dụng đúng quy tắc ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng giúp chủ thể ban hành văn bản truyền tải toàn bộ ý tưởng tạo thành những quy định pháp luật. Vì vậy, ngôn ngữ sẽ tham gia vào tất cả các công đoạn trong quá trình ban hành văn bản đồng thời là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng nội dung của mỗi văn bản sau khi được ban hành. Văn bản được coi là có kỹ thuật pháp lý bảo đảm khi đáp ứng được những yêu cầu về sử dụng ngôn ngữ sau đây: + Ngôn ngữ trong văn bản của Nhà nước là ngôn ngữ viết. Là hình thức pháp lý đặc thù của quyết định quản lý nhà nước, văn bản phải được thể hiện bằng ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ viết đòi hỏi các từ sử dụng trong văn bản được lựa chọn kỹ càng, có tính chính xác cao, câu phải đủ thành phần ngữ pháp; các đoạn phải được liên kết, sắp xếp lôgíc, chặt chẽ tạo sự hoàn chỉnh về nội dung và hình thức của văn bản. Điều này cũng có nghĩa, sự ra lệnh (hình thức nói) của cấp trên với cấp dưới

không được coi là văn bản bởi “lời nói gió bay”. Nếu cấp dưới không thực hiện mệnh lệnh miệng của cấp trên, cấp trên không thể có chứng cứ rõ ràng để áp dụng chế tài kỷ luật cấp dưới được, bởi Nhà nước chỉ thừa nhận hình thức tồn tại chính thống của văn bản là thành văn. + Ngôn ngữ trong văn bản của Nhà nước là ngôn ngữ Tiếng Việt. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với mọi văn bản của Nhà nước. Sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt trong văn bản của Nhà nước đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý hơn so với việc sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật phải được thể hiện bằng Tiếng Việt”. Hình thức pháp lý quan trọng nhất được thể hiện bằng Tiếng Việt, có nghĩa những văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính – kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật và triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật cũng phải tuân theo quy định này. Ngoài ra, ngôn ngữ trong văn bản của Nhà nước là ngôn ngữ Tiếng Việt còn bảo đảm sự hợp lý về khoa học. Với 54 dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam , mỗi dân tộc có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Do vậy, Nhà nước phải lựa chọn một ngôn ngữ chính thống theo tiêu chí khoa học: là ngôn ngữ của dân tộc có số dân chiếm đại đa số – dân tộc Kinh. Lựa chọn Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thống có nhiều điểm thuận tiện trong quá trình soạn thảo cũng như tổ chức thực hiện văn bản trong thực tiễn. Đối tượng mà văn bản tác động tới là công dân, các tổ chức, chỉ có thể nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật khi họ hiểu được quy định đó cho phép làm gì, bắt buộc làm gì và cấm làm gì. Vì thế, với số dân chiếm đại đa số sử dụng Tiếng Việt như vậy sẽ thuận tiện cho quá trình tuyên truyền, phổ biến, tổ chức thực hiện văn bản. Ngược lại, sẽ là không thuận nếu Nhà nước sử dụng ngôn ngữ của dân tộc thiểu số làm ngôn ngữ chính thống trong văn bản của mình. + Là ngôn ngữ được Nhà nước sử dụng. Ngôn ngữ trong văn bản của Nhà nước là ngôn ngữ Tiếng Việt nhưng có sự chuẩn mực cao hơn Tiếng Việt thông dụng thể hiện thông qua bốn yêu cầu : - Ngôn ngữ trong văn bản phải bảo đảm tính nghiêm túc. Văn bản do Nhà nước – tổ chức đặc biệt mang quyền lực, có khả năng áp đặt ý chí lên các đối tượng quản lý, bắt buộc các đối tượng quản lý phải tuân theo. Vì vậy, ngôn ngữ trong văn bản nếu nghiêm túc tạo nên sự trang nghiêm, uy quyền của chủ thể ban hành vì thế sẽ phát huy tối đa khả năng áp đặt ý chí đến các đối tượng quản lý.

- Ngôn ngữ trong văn bản phải bảo đảm tính chính xác. Về nội dung, ngôn ngữ chính xác có nghĩa mỗi từ, câu tạo nên quy định trong văn bản chỉ được hiểu theo một nghĩa thống nhất. Pháp luật cần chính xác, tránh chung chung, mập mờ sẽ giúp cho các đối tượng dễ dàng hiểu và thực hiện đúng. Về hình thức biểu hiện, ngôn ngữ trong văn bản phải chính xác về chính tả (cách viết hoa, viết tắt, sử dụng dấu câu…); chính xác về nghĩa của mỗi từ (cả nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp); chính xác trong cách đặt câu (đủ thành phần chủ ngữ và vị ngữ)… - Ngôn ngữ trong văn bản phải bảo đảm tính phổ biến. Đối tượng tác động của văn bản là tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến văn bản. Họ có trình độ học vấn và nhận thức khác nhau, ở những vùng, miền với điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau. Vì vậy, khi soạn thảo văn bản phải đảm bảo ngôn ngữ có tính phổ biến, nghĩa là đơn giản, dễ hiểu, để đối tượng dễ dàng tuân theo quy định của pháp luật cũng như mệnh lệnh của cấp trên. - Ngôn ngữ trong văn bản phải bảo đảm tính thống nhất. Tính thống nhất của ngôn ngữ góp phần tạo ra sự thống nhất về nội dung của văn bản và thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như triển khai thực hiện văn bản vào thực tiễn. Ngôn ngữ phải được sử dụng thống nhất ngay trong nội tại từng văn bản và thống nhất giữa các văn bản có cùng chủ đề với nhau. * Phân chia, sắp xếp nội dung đảm bảo tính lôgíc, chặt chẽ Đây là một trong những yêu cầu quan trọng về mặt khoa học tạo nên chất lượng của văn bản. Mặc dù văn bản có đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về chính trị, pháp lý… nhưng được phân chia, sắp xếp không lôgic, chặt chẽ, văn bản đó không thể có tính khả thi và chất lượng không cao. Một văn bản được coi là có nội dung lôgic khi văn bản đó phân chia, sắp xếp theo những cách thức: + Quy định chung được trình bày trước quy định cụ thể trong cùng một vấn đề (khái quát – cụ thể). + Quy định về nội dung được trình bày trước quy định về thủ tục. + Quy định về trường hợp phổ biến trình bày trước quy định về trường hợp có tính đặc thù;

+ Quy định về quyền, nghĩa vụ được trình bày trước quy định về chế tài; + Quy định có tính chất quan trọng được trình bày trước quy định có tính chất ít quan trọng; + Trình bày theo trình tự diễn biến của vấn đề (trong văn bản chỉ quy định về thủ tục). Tuỳ theo nội dung của mỗi văn bản khác nhau mà người soạn thảo lựa chọn cách trình bày bố cục lôgic trên theo kế cấu điều khoản (phần, chương, mục, điều, khoản, điểm) hay theo kết cấu nghị luận (I, 1, a, …). Thông thường đối với nhóm văn bản hành chính (công văn, báo cáo, tờ trình…) lựa chọn cách phân chia nội dung theo kết cấu nghị luận mà không chia theo điều khoản, còn luật, pháp lệnh, quyết định, nghị định nội dung được phân chia, sắp xếp theo kết cấu điều khoản; thông tư, chỉ thị theo kết cấu nghị luận