Thế nào là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội

Ngày hỏi:21/07/2000

Chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ?

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích nhà nước, xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Khoản 1 Điều 281 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm”.

Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm cũng là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội: là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với các tội phạm khác cũng có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:

Phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ.

Nếu chỉ xét về yếu tố chủ thể thì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và các tội có liên quan đến chức vụ, quyền hạn thì có nhiều điểm tương đồng, chỉ cần căn cứ vào Điều 4 Luật cán bộ, công chức và khoản 3 Điều 1 Luật phòng chống tham nhũng đã phân tích ở các phần trên để xác định thế nào là người có chức vụ, quyền hạn.

Cũng như chủ thể của các tội phạm về chức vụ, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới thực hiện được tội phạm. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng với trường hợp vụ án không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức, còn người thực hành thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn.

Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 281 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án, vì ở độ tuổi này họ chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức trong vụ án. 

Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 281 mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của Điều 281 Bộ luật hình sự. Quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng.

  • Quyền hạn của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
  • 'Các bản kê khai tài sản sẽ được xác minh ngẫu nhiên'
  • Tập trung kiểm sát chặt chẽ việc thu hồi tài sản tham nhũng
  • Ngành Hải quan ban hành kế hoạch phòng, chống tham nhũng
  • Siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tập trung chống tham nhũng, chạy chức, chạy quyền
  • Nâng tỷ lệ giải quyết và kết thúc điều tra các vụ án tham nhũng
  • Quốc hội giao chỉ tiêu chống tham nhũng trong cơ quan chống tham nhũng
  • Tập trung kê khai tài sản, thu nhập năm 2019
  • Sẽ khen thưởng cho người tố cáo đúng kẻ chạy chức, chạy quyền
  • Xử lý nghiêm cán bộ thuế cố tình sách nhiễu người nộp thuế
  • Cán bộ, công chức ngành GTVT không được gây phiền hà, vòi vĩnh
  • Biện pháp phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động công vụ
  • Xử lý nghiêm công chức nhũng nhiễu, gây phiền hà với người dân
  • Loại khỏi bộ máy những cán bộ tha hoá, biến chất, tiếp tay cho tội phạm
  • Lãnh đạo có thể bị cách chức nếu bố trí người thân vào vị trí quản lý tổ chức nhân sự

Trong các tội phạm về chức vụ như tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, thì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là tội phạm phổ biến nhất. Bởi trong khi làm nhiệm vụ, công vụ, người có chức vụ, quyền hạn dễ dàng thực hiện hành vi và cũng dễ bị người khác tác động để thực hiện hành vi phạm tội nhất. Xung quanh nội dung này, chúng tôi nhận được rất nhiều các câu hỏi có liên quan.

Cụ thể có câu hỏi như sau: “Chào Luật sư, tôi hiện đang sinh sống tại Hà Nội. Tôi thấy hiện nay có rất nhiều vụ việc liên quan tới việc lợi dụng chức vụ khi thi hành công vụ. Vì vậy tôi muốn hỏi tội lợi dụng chức vụ khi thi hành công vụ này sẽ bị xử lý như thế nào? Mong được Luật Sư X giải đáp, tôi cảm ơn.”

Căn cứ pháp lý

Bộ Luật Hình Sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Nội dung tư vấn

Cấu thành tội phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Các yếu tố cấu thành tội phạm được xác định như sau:

Tội phạm xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức xã hội; đồng thời xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.

Hành vi khách quan của tội này là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ. Trong thực tế làm trái công vụ có thể là không làm trong trường hợp phải làm; và có điều kiện để làm hoặc làm nhưng không đầy đủ; hoặc làm ngược lại quy định hoặc yêu cầu của công vụ.

Quy định về công vụ có thể tồn tại trong các quy định của pháp luật, nội quy, chế độ, thể lệ của ngành; hoặc địa phương. Hành vi làm trái của người có chức vụ, quyền hạn phải gây ra những thiệt hại cụ thể cho lợi ích của nhà nước; của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Như vậy; hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này là dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Đây là loại tội phạm mà hậu quả nguy hiểm của nó rất đa dạng.

Chúng có thể là những thiệt hại mang tính vật chất như tính mạng, sức khỏe, tài sản; nhưng cũng có thể là những thiệt hại phi vật chất như uy tín, danh dự, nhân phẩm con người… Khi có hậu quả xảy ra; hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ bị coi là tội phạm.

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.

Động cơ phạm tội là động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.

Động cơ vụ lợi là động cơ mưu cầu lợi ích vật chất cho mình; hoặc cho người khác mà mình quan tâm.

Động cơ cá nhân khác trong thực tế có thể là động cơ củng cố địa vị, uy tín cá nhân; hoặc quyền lực cá nhân mà không mưu cầu lợi ích vật chất.

Động cơ phạm tội là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội này.

Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn.

Ngoài hai dấu hiệu pháp lý thông thường của chủ thể của tội phạm:

Độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự; người thực hiện hành vi phạm tội ở đây phải là người có chức vụ, quyền hạn; theo quy định của điều 352 BLHS.

Nếu người gây thiệt hại cho xã hội không có dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn; thì hành vi gây thiệt hại có thể cấu thành một tội phạm khác.

Dấu hiệu về chủ thể đặc biệt chỉ yêu cầu người phạm tội; trong trường hợp đồng phạm thì những người đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức không cần dấu hiệu trên đây.

Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi khi thi hành công vụ bị xử lý thế nào?

Điều 356, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ sẽ bị truy cứu theo các khung phạt sau

Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

Phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.

Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm; có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Như vậy, hình phạt cao nhất cho tội danh lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ sẽ là có thể bị phạt tù từ 10-15 năm; bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm; và bị phạt tiền đến 100 triệu đồng.

Mời bạn xem thêm bài viết:

Thông tin liên hệ Luật Sư X

Trên đây là nội dung tư vấn về Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ bị xử lý thế nào? Mọi thắc mắc về thủ tục pháp lý có liên quan, dịch vụ luật sư tư vấn hình sự, luật sư tranh tụng, luật sư bào chữa trong vụ án hình sự. Quý khách vui lòng liên hệ Luật Sư X để được hỗ trợ, giải đáp.

Gọi ngay cho chúng tôi qua hotline: 0833.102.102

Phân biệt lạm dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn

Lạm dụng chức vụ, quyền hạn” là sử dụng vượt quá quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ được giao hoặc tuy không được giao, không được phân công nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực đó nhưng vẫn thực hiện.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” là dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái, không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật.

Chống người thi hành công vụ phải chịu hình phạt gì ?

Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì nhẹ nhất là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Mức hình phạt nhẹ nhất với tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ?

Bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm khi hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài sản từ 10 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại khác lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

5 trên 5 (2 Phiếu)

Video liên quan

Chủ đề