Căn cứ tái thẩm Ngày 12/8/2021, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quyết định kháng nghị số 09/QĐKNTT-VKS-KDTM đề nghị Hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử tái thẩm hủy Bản án phúc thẩm số 253/2011/KDTM-PT ngày 21/12/2011 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; hủy Bản án sơ thẩm số 12/2011/KDTM-ST ngày 28/01/2011 của TAND TP. Hà Nội để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Quyết định kháng nghị số 09/QĐKNTT-VKS-KDTM nhận định: “Hợp đồng cam kết 458/HĐCNQSDĐ là giao dịch dân sự có điều kiện, không phải hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng khi xét xử Tòa án lại nhận định đây là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để tuyên Hợp đồng vô hiệu là không dựa vào tình tiết khách quan, đánh giá sai bản chất và kết luận trái pháp luật”. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm “cho rằng lô đất C/D13 chưa đủ điều kiện chuyển nhượng và tuyên Hợp đồng này vô hiệu là kết luận trái pháp luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự”. Quyết định tái thẩm còn nêu thêm hai căn cứ là năng lực tài chính của Công ty CIRI và lô đất tương tự được giao dịch thành công. Điều 351 BLTTDS năm 2015 về tính chất của tái thẩm quy định: Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó. Theo Điều 352, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ. Do đó, chắc chắn Hội đồng Thẩm phán TANDTC sẽ xem xét Quyết định kháng nghị tái thẩm của Viện trưởng VKSNDTC theo đúng quy định của pháp luật. Tình tiết mới? Vấn đề Quyết định kháng nghị tái thẩm của Viện trưởng VKSNDTC nêu ra đã được xem xét tại Quyết định Giám đốc thẩm số 14/2009/KDTM-GĐT ngày 18/12/2009. Trong đó, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã bác kháng nghị số 18/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 16/6/2009 của Viện trưởng VKSNDTC, với nhận định: “Hợp đồng cam kết 458/HĐCNQSDĐ, ngày 11/10/2006, giữa Công ty CIRI và Công ty Vạn Niên không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chỉ là giao dịch dân sự có điều kiện, nhưng có nội dung trái pháp luật. Cụ thế là Hợp đồng đã vi phạm Điều 62 Luật Đất đai quy định về điều kiện để đất tham gia thị trường bất động sản; điểm e khoản 2 Điều 7 Luật Kinh doanh bất động sản quy định về điều kiện đối với bất động sản đưa vào kinh doanh; điểm a khoản 8 Điều 2 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/10/2006 của Chính phủ quy định về việc chuyển nhượng QSDĐ của các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê và Điều 5 Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 15/8/2007 của UBND TP. Hà Nội về việc thu hồi 7.220,9 m2 đất tại lô C/D13 Khu đô thị mới Cầu Giấy, giao cho CIRI để xây dựng nhà ở chung cư (căn cứ vào các quy định nêu trên thì Công ty CIRI không được phép chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất đã được UBND TP. Hà Nội giao để thực hiện dự án đầu tư là xây dựng nhà chung cư khi chưa hoàn thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được duyệt hoặc theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt), xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, nên vô hiệu ngay từ khi giao kết. Toà án các cấp phải xem xét giải quyết đối với hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự thì mới đảm bảo đúng quy định của pháp luật". Sau đó, Bản án sơ thẩm số 12/2011/KDTM-ST ngày 28/01/2011 của TAND TP. Hà Nội và Bản án phúc thẩm số 253/2011/KDTM-PT ngày 21/12/2011 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đều xét xử theo nội dung nhận định của Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Ngày 21/12/2014 TANDTC cũng có Thông báo số 498a/TB giải quyết đơn đề nghị của Công ty Vạn Niên nêu rõ quan điểm: Về nội dung, tại thời điểm các bên giao kết Hơp đồng thì Luật Đất đai năm 2003 đang có hiệu lực thi hành. Thông báo viện dẫn Điều 62 Luật Đất đai 2003; điểm a khoản 8 Điều 2 Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ quy định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất để kết luận: Công ty CIRI không được phép chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất C/D3 khi chưa hoàn thành việc đầu tư xây dựng hạ tầng… nên Hợp đồng vô hiệu ngay từ khi ký kết. Vì vậy, không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 253/2011/KDTM -PT ngày 21/12/2011 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. Quan điểm nhất quán Công ty Vạn Niên sau đó vẫn kiên trì khiếu nại đến VKSNDTC, TANDTC đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 253/2011/KDTM-PT nêu trên. Do đó, ngày 22/9/2020, TANDTC lại có Thông báo số 504/TB-TA giải quyết đơn khiếu nại của Công ty Vạn Niên, tiếp tục khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên Hợp đồng cam kết 458/HĐCNQSDĐ, ngày 11/10/2006, giữa Công ty CIRI và Công ty Vạn Niên “vô hiệu là có căn cứ”. Về bồi thường thiệt hại do hợp đồng bị vô hiệu, Thông báo nêu rõ, do Hợp đồng cam kết số 458/HĐCNQSDĐ, ngày 11/10/2006 cả Công ty CIRI và Công ty Vạn Niên đều có lỗi, do chưa được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác, khoản 8.1.1 Điều 8 của Hợp đồng Công ty CIRI và Công ty Vạn Niên đã thỏa thuận: “Trong trường hợp bên A không thực hiện đầy đủ các điều khoản đã quy định trong Hợp đồng này, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày vi phạm bên A phải làm các thủ tục hoàn trả ngay cho bên B số tiền mà các bên đã thanh toán cho bên A và các cơ quan nhà nước có liên quan, đồng thời phải chịu phạt vi phạm thỏa thuận bằng 10% giá trị Hợp đồng, căn cứ vào mức giá do hai bên thỏa thuận chuyển nhượng được quy định tại Điều 3 của Hợp đồng này”. Như vậy, các bên đã thỏa thuận việc xử lý vi phạm trong trường hợp bên Công ty CIRI không thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng nhưng không phải bồi thường thiệt hại, do đó Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty CIRI phải hoàn trả cho Công ty Vạn Niên số tiền gốc 65.124.000.000đ và tiền lãi 24.698.277.000đ là bảo đảm quyền lợi cho Công ty Vạn Niên. Thông báo cũng cho biết: Ngày 19/12/2019, Công ty Vạn Niên mới có đơn đề nghị xem xét lại Bản án phúc thẩm theo thủ tục tái thẩm, nhưng Công ty Vạn Niên không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới làm căn cứ tái thẩm theo quy định tại Điều 351 BLTTHS năm 2015 và thời hạn xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã hết. Vì vậy, không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Bản án số 253/2011/KDTM -PT nêu trên. Quan điểm của các cấp Tòa án, nhất là TANDTC trong vụ án này là thống nhất. Vụ án đã kéo dài quá lâu, hy vọng rằng phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét Quyết định Kháng nghị tái thẩm số 09/QĐKNTT-VKS-KDTM sắp tới sẽ giải quyết dứt điểm vụ án để hạn chế tổn thất cho các bên. Khu đô thị mới Cầu Giấy - Ảnh: Hạ Vũ
Ngày đăng: 07/02/2013 10:51
Theo quy định tại khoản 8 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 - sau đây gọi chung là Hiến pháp 1992) thì Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, tại khoản 6 Điều 25 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 quy định: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Như vậy, pháp luật hiện hành quy định hai cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán, đó là: Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực. Theo quy định này, việc bổ nhiệm Thẩm phán các Tòa án gần như mang tính nội bộ khép kín, ngoài Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (do Chủ tịch nước bổ nhiệm) thì Thẩm phán của tất cả các Toà án còn lại đều do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Quy định này vô hình chung đã tác động, ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động xét xử của mỗi cấp tòa án, sự can thiệp của toà án cấp trên vào công việc bổ nhiệm Thẩm phán cũng rất khó để đảm bảo được tính độc lập trong hoạt động của mỗi Thẩm phán. Thậm chí còn có ý kiến lo ngại “Toà án các cấp khi phán quyết cũng đều nhân danh quyền lực Nhà nước, vì vậy thiết chế toà án không thể là ngành toà án, không thể là cấp trên, cấp dưới mà toà án cấp huyện cũng có quyền ngang với toà án tối cao về phương diện xét xử độc lập. Ấy vậy mà chúng ta lại quy định toà án cấp trên đi bổ nhiệm cán bộ toà án cấp dưới... Điều này có làm cho chất lượng xét xử kém hiệu quả?” (đại biểu Quốc hội Hà Hùng Cường - Bộ trưởng Bộ Tư pháp). Mặt khác, yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải đảm bảo tính độc lập của tòa án và tại Điều 130 Hiến pháp 1992 cũng đã quy định rõ “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; do đó, việc đảm bảo tính độc lập của các Thẩm phán để giảm thiểu tối đa sự can thiệp từ các yếu tố bên ngoài là yêu cầu hết sức cần thiết. Nhiệm vụ cải cách Tư pháp nói chung, trong đó có cải cách hệ thống toà án đã được Bộ Chính trị khẳng định rõ tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó đã xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm của cải cách Tư pháp là “Xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân” và việc “Tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng của thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố tụng” cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách Tư pháp. Như vậy có thể thấy, cùng với yêu cầu đổi mới mô hình tổ chức của tòa án thì vấn đề nâng cao tính độc lập của Thẩm phán là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đặt ra phương hướng, nhiệm vụ của Chiến lược Cải cách tư pháp là phải “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử... đối với hoạt động tư pháp”. Theo đó đã đặt ra yêu cầu phải đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng nhưng không ảnh hưởng tới tính độc lập của các Tòa án nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung; tăng cường sự giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có tòa án, mà ở đây chính là hoạt động xét xử của các Thẩm phán. Để phù hợp với các yêu cầu về cải cách Tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, đồng thời khắc phục những bất cập của việc bổ nhiệm Thẩm phán theo cơ chế pháp luật hiện hành; tại bản Dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 chính thức được công bố để lấy ý kiến nhân dân lần này, cơ chế bổ nhiệm thẩm phán cũng đã được sửa đổi theo hướng “Quốc hội có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” (khoản 7 Điều 75 - sửa đổi, bổ sung Điều 84); “Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác” (Khoản 3 Điều 93 - sửa đổi, bổ sung Điều 103). Như vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này đã bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ sung nhiệm vụ, thẩm quyền của Chủ tịch nước trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác (chuyển thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực từ Chánh án Toà án nhân dân tối cao sang Chủ tịch nước). Điều đó là phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân; làm rõ hơn vai trò của Quốc hội, Chủ tịch nước trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền Tư pháp, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp; đồng thời, nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần Cải cách Tư pháp mà Bộ Chính trị đã đề ra (theo Báo cáo thuyết minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp); góp phần quan trọng vào việc đảm bảo tính khả thi của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã được khẳng định tại Hiến pháp 1992 và tiếp tục được khẳng định lại tại bản dự thảo sửa đổi, bổ sung lần này (Điều 130 - dự kiến sửa đổi tại Điều 108). Thanh Tâm |