Tại sao nguyễn tri phương thất thủ tại gia định và hà nội

Ông là danh tướng của triều Nguyễn. Khi rơi vào tay giặc, không đầu hàng, ông chọn cho mình cái chết lẫm liệt, lưu danh sử sách muôn đời.

Đêm ngày 19, rạng sáng 20/11/1873, quân Pháp đánh úp thành Hà Nội. Chúng chiếm vòng phòng thủ bên ngoài của hai cửa phía Nam, vượt qua cầu trước khi quân trú phòng kịp bắn xuống.

Pháo từ các thuyền cũng bắn lên, binh lính phòng thủ nhà Nguyễn không quen với đạn pháo, bỏ chạy tán loạn khỏi thành theo cửa Tây. Cùng lúc đó, quân Pháp cũng bắn vỡ cửa Nam. Chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ tam tài lên vọng lâu thành Hà Nội.

Cái chết lẫm liệt đi vào sử sách

Trong trận chiến chớp nhoáng này, phò mã Nguyễn Lâm (con trai Nguyễn Tri Phương) đã chiến đấu anh dũng đến khi hy sinh ngay trên chiến trường. Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và rơi vào tay giặc.

Quân Pháp tìm cách mua chuộc ông. Chúng biết rằng nếu Nguyễn Tri Phương quy hàng, người Pháp sẽ dễ dàng đạt được mục đích chiếm nước Nam, sớm hoàn thành âm mưu biến nước ta thành thuộc địa.

Nguyễn Tri Phương không màng đến mạng sống, đã từ chối thẳng thừng yêu cầu chữa trị vết thương, tuyệt thực tuẫn tiết để khẳng định tinh thần bất khuất của người Việt.

Trước khi qua đời, ông để lại câu nói đi vào sử sách: "Bây giờ nếu ta chỉ lay lắt mà sống, sao bằng ung dung chết vì việc nghĩa".

Tại sao nguyễn tri phương thất thủ tại gia định và hà nội
Tranh vẽ quân Pháp tấn công thành Hà Nội năm 1873. Ảnh: Báo Pháp Luật TP.HCM.

Cái chết của Tổng đốc Nguyễn Tri Phương để lại niềm tiếc thương vô hạn. Nhân dân Hà Nội lập bàn thờ ông ngay tại đền Trung Liệt trên gò Đống Đa. Nơi đây hiện còn lưu lại hai câu đối: "Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất / Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh".

Sau cái chết của Nguyễn Tri Phương, người dân Hà Nội càng sục sôi căm thù quân xâm lược, đứng lên chống Pháp, làm nên chiến thắng Cầu Giấy vẻ vang tháng 12/1873.

Trong cuộc chiến này, quân Pháp rơi vào ổ phục kích của ta, bị tiêu diệt rất nhiều. Viên sĩ quan chỉ huy Francis Garnier bị giết tại trận, tàn binh Pháp lui về cố thủ trong thành.

Thất bại trong trận Cầu Giấy, Pháp buộc phải ký hiệp ước ngày 5/1/1874, trả lại Thành Hà Nội và các tỉnh Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định cho nhà Nguyễn và chỉ lập một cơ quan công xứ ở Hải Phòng.

Cuộc đời danh tướng kiệt xuất triều Nguyễn

Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xâm lược Việt Nam ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Trước vận nước nguy nan, vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương vào trực tiếp chỉ huy quân đội kháng chiến.

Tới Đà Nẵng, ông không vội dẫn quân phản công địch ngay, mà thực hiện chiến thuật ứng phó dựa vào sức dân, cẩn trọng xem xét lại tổng thể tình hình, vẽ địa đồ, tìm kế sách đánh giặc.

Ông cho đắp đồn lũy, đánh giặc lâu dài, vận động người dân bất hợp tác với Pháp, để lại vườn không nhà trống ở những vùng bị tấn công.

Thấy nhà Nguyễn dường như án binh bất động, quân Pháp cũng không mở rộng phạm vi chiếm đóng. Tận dụng thời cơ, Nguyễn Tri Phương cho lập phòng tuyến dài hơn 3 km, gồm nhiều hầm dích dắc, dưới cắm chông, trên phủ cát và chướng ngại vật ngụy trang, cách một đoạn có một ổ kháng cự, một khẩu đại bác cùng khoảng 10.000 quân trấn giữ.

Tại sao nguyễn tri phương thất thủ tại gia định và hà nội
Tranh minh họa Nguyễn Tri Phương lập phòng tuyến chống Pháp ở Đà Nẵng.

Quân Pháp tấn công vào lũy từ ba mặt nhưng liên tiếp bị phục kích phải lui binh, rơi xuống hố chông, bị bắt và giết khá nhiều khiến tâm lý hoang mang, lo sợ. Bấy giờ, Nguyễn Tri Phương cho quân liên tục vây ép, đánh tỉa, phục kích để tiêu hao sinh lực địch.

Quân Pháp buộc phải từ bỏ Đà Nẵng, kéo một bộ phận vào chiếm Gia Định. Lúc này, Nguyễn Tri Phương cho quân tiến lên, lập đồn tuyến sát nơi địch đang chiếm đóng để bố trí mai phục.

Dưới lòng sông Hàn, quân ta dùng xích sắt chắn ngầm ngang để tàu chiến không thể vào sâu đất liền. Trong ngày 6-7/2/1859, quân triều Nguyễn dốc toàn lực đẩy quân Pháp ra vùng cửa sông, chúng buộc phải cầu cứu cánh quân từ Gia Định.

Từ Gia Định, quân Pháp phải quay lại Đà Nẵng tiếp cứu. Tuy nhiên, cuộc đánh chiếm lần hai không còn dễ dàng, liên quân Pháp - Tây Ban Nha bị thiệt hại rất nhiều. Kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của quân Pháp thất bại hoàn toàn.

Mừng tin chiến thắng, vua Tự Đức ban cho tướng Nguyễn Tri Phương thanh ngự kiếm và sâm quế. Binh sĩ được thưởng 100 quan tiền, lệnh cho quan tỉnh Quảng Nam mua trâu, rượu về mở tiệc khao quân.

Sau chiến công ở Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương lại được cử vào Gia Định. Tại đây, ông tiếp tục bố trí lực lượng, cùng em trai tiếp tục công cuộc chống Pháp. Tuy nhiên, trong cuộc chiến không cân sức này, quân Nguyễn ngày càng thất thế, em ruột ông là Nguyễn Duy tử trận.

Năm 1862, sau khi triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất, dâng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, ông lại được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải An quân vụ, thăng chức Võ Hiển Đại học sĩ, tước Tráng Liệt Bá.

Năm Nhâm Thân (1872), ông được điều về giữ chức Tuyên sát đổng sức đại thần, thay mặt triều đình xem xét việc quân sự ở Bắc Kỳ cho đến khi cả hai cha con đều hy sinh trong cuộc chiến giữ thành Hà Nội năm 1873.

Nguyễn Tri Phương và tinh thần đánh giặc ngoại xâm Cuộc chiến dưới chân thành Điện Hải (Đà Nẵng) năm 1858 đã ghi dấu ấn sâu đậm về tư tưởng chiến lược và chiến thuật dụng binh kỳ tài của danh tướng Nguyễn Tri Phương.

Nguyễn Tri Phương (1800-1873) xuất thân từ gia đình nông dân và làm thợ mộc ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Từ chức quan văn nhỏ thời vua Minh Mạng, ông nhanh chóng lập được nhiều chiến công, trở thành đại thần dưới cả ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

Sau khi qua đời, thi hài của cha con Nguyễn Tri Phương được đưa về an táng ở quê nhà. Tiếc thương vị đại thần trung liệt, vua Tự Đức tự soạn văn tế thương khóc và cho lập đền thờ ở quê.

Năm 1875, vua lại sai đem vào thờ tự ở đền công thần Trung Nghĩa Từ ở Huế; sau đó lại lập nhà thờ lấy tên Trung Hiếu Từ, thờ chung ba vị công thần trong gia đình ông hy sinh vì nước.

Ngày nay, tên tuổi của ông được dùng đặt cho nhiều trường học, tuyến đường trên đất nước ta.

Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).

Tên thật là Nguyễn Văn Chương, quê làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, còn tên Nguyễn Tri Phương do vua Tự Đức cải tên (1850), hàm ý nói về con người nghĩa dũng, nhiều mưu chước. Từ đó, Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Xuất thân trong một gia đình nông dân, không được qua trường lớp, nhưng nhờ trí thông minh và ý chí tự học, tự lập cao, đã làm nên sự nghiệp lớn. Bắt đầu từ chân thơ lại ở cấp huyện, do tài năng mà được tiến cử lên triều đình Minh Mạng, được thu dụng và lần lượt giữ nhiều chức vụ trọng yếu suốt ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Ngày 01/9/1858, tàu chiến Pháp – Tây Ban Nha dưới quyền chỉ huy của Rigault de Genouilly nổ súng, đánh chiếm Đà Nẵng. Quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, ngăn bước tiến của giặc. Đô thống Lê Đình Lý trúng đạn, sau đó hy sinh. Vua Tự Đức điều Nguyễn Tri Phương, võ tướng số một của ta lúc đó, đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam. Ông đã bố trí lại lực lượng phòng thủ và đề ra phương thức tác chiến phù hợp với tương quan lực lượng giữa ta và địch lúc bấy giờ. Ông chủ trương tránh những mũi tiến công chính diện của địch, mà bao vây, đánh chặn địch ở mé ngoài, liên tục phục kích tiêu hao địch, làm vườn không nhà trống, cô lập địch với dân. Đầu tháng 2-1859, Rigault de Genouilly buộc phải chuyển hướng tiến công vào Gia Định. Tháng 7-1860, Nguyễn Tri Phương lại được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ. Trong trận đánh ngày 25/10/1861, người em ruột của ông, Tán lý Nguyễn Duy tử trận, còn ông bị thương, đại đồn Chí Hòa thất thủ. Ông bị giáng chức lần nữa xuống làm Tham tri, sau đó được Tự Đức cho khôi phục hàm Binh bộ Thượng thư Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Năm 1862, Nguyễn Tri Phương được cử ra làm Tổng thống quân vụ Hải An. Năm 1871, được điều về kinh, giữ chức Lại bộ Thượng thư. Tháng 7-1872, vì ở đất Bắc, giặc giã quấy nhiễu nhiều nơi, vị tướng tài ba này một lần nữa lại được cử làm Bắc Kỳ Khâm mạng Tuyên sát đổng sức đại thần thay vua để xử lý việc quân.

Ngày 19/11/1873, Francis Garnier theo lệnh của Soái phủ Nam Kỳ đánh úp thành Hà Nội và chỉ sau mấy giờ thì hạ được thành. Con trai ông, phò mã Nguyễn Lâm, trúng đạn chết tại trận, còn ông bị trọng thương. Giặc Pháp đưa ông xuống tàu để cứu chữa, nhưng ông khẳng khái từ chối. Chúng đem thuốc băng bó, ông giật đi, vứt bỏ, chúng đưa thức ăn vào miệng, ông đều phun ra, không chịu nuốt, mà nói rằng:”Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung mà chết vì việc nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất ngày 1 tháng 11 năm Quý Dậu (20/12/1873).

Nguyễn Tri Phương (1800-1873) xuất thân từ gia đình làm nông nghiệp ở làng Đường Long (huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay). Đầu thời vua Minh Mạng, ông được cất nhắc giữ một chức quan văn nhưng đã lập không ít võ công cho triều Nguyễn. Với tài năng của mình, tướng Nguyễn Tri Phương lần lượt làm quan dưới cả ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

Dưới con mắt của vua Tự Đức, Nguyễn Tri Phương là bề tôi trung thành, võ tướng trí dũng song toàn và thanh liêm. Ông được giao cho nhiều trọng trách, đi rất nhiều nước, trong đó có cả những vùng thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ để học hỏi kinh nghiệm chiến đấu. Ông cũng trải qua nhiều trận mạc với những năm tháng chống giặc Xiêm và "thổ phỉ" ở phía Nam.

Quyết đánh nhưng không nóng vội

Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xâm lược Đà Nẵng. Với lệ thế về hỏa lực và quân số, liên quân khiến triều Nguyễn liên tục thất bại, mất nhiều thành, đồn, nhiều tướng sĩ tử trận. Vua Tự Đức đã cử Nguyễn Tri Phương đang làm quan ở Nam kỳ, ra làm tổng chỉ huy chống thực dân Pháp ở Đà Nẵng.

Tại sao nguyễn tri phương thất thủ tại gia định và hà nội

Tượng danh tướng Nguyễn Tri Phương bằng đồng đặt tại Bảo tàng Đà Nẵng. Ảnh: Nguyễn Đông.

Khi tới Đà Nẵng,Nguyễn Tri Phương không vội dẫn quân phản công đánh chiếm lại thành ngay mà thực hiện chiến thuật ứng phó dựa vào sức dân, cẩn trọng xem xét lại tổng thể tình hình, vẽ địa đồ và kế sách đánh.

Trong sớ gửi về triều đình, Nguyễn Tri Phương nhận định quân địch chiến đấu thì lợi, còn quân ta thủ thì sẽ hơn. Ông đề nghị nên giữ vững những mặt trận còn lại để tìm cách cự chiến, đắp xong đồn lũy rồi dần dần mới xông tới, xác định đánh lâu dài với địch. Ông vận động người dân bất hợp tác với giặc, để lại vườn không nhà trống những vùng bị tấn công.

Triều đình sau đó chấp thuận việc chỉnh đốn lại quân ngũ, sửa sang đồn luỹ. Nguyễn Tri Phươnglệnh cho quân làm lại công sự, sửa lại đồn, đặt lại các vọng lâu để dễ bề quan sát, ứng cứu.Thấy nhà Nguyễn dường như án binh bất động, liên quân Pháp - Tây cũng không mở rộng phạm vi chiếm đóng.

Lợi dụng tình thế này, Nguyễn Tri Phương cùng binh lính và người dân xứ Quảng ngày đêm lập phòng tuyến dài từ chân núi Cẩm Khê đến đồn Liên Trì dài 3 km.Phòng tuyến gồm nhiều hầm dích dắc, dưới cắm chông, trên phủ cát và chướng ngại vật nguỵ trang, cách một đoạn có một ổ kháng cự, một khẩu đại bác cùng khoảng 10.000 quân trấn giữ.

Một viên tướng trong quân đội Pháp phải thừa nhận: "Thành lũy của Nguyễn Tri Phương dựng mau như nấm mọc, hễ chỗ nào có lối đi là có ngay chiến lũy ngăn cản". Còn Savin de Larclause - sĩ quan trong đội quân viễn chinh ở Đà Nẵng, nói "những người An Nam đã đạt được tiến bộ lớn trong nghệ thuật chiến tranh. Chúng tôi chỉ đẩy đuổi được quân địch vài trăm thước, họ đã lui về ẩn mình trong một phòng tuyến mới ngay trước mặt".

Phục kích, đánh tỉa bất ngờ

Quân giặc tấn công vào lũy từ ba mặt nhưng liên tiếp bị phục kích phải dừng lại hoặc rơi xuống hố chông, bị bắt và giết khá nhiều khiến tâm lý hoang mang. Nguyễn Tri Phương cho quân liên tục vây ép, đánh tỉa cũng như phục kích để tiêu hao sinh lực địch khi đi tuần, hoặc đi săn ở nơi vắng vẻ.

Nếu như trước đây liên quân Pháp - Tây dễ dàng tiến vào Đà Nẵng và hầu như không nếm mùi thương vong, thì khi Nguyễn Tri Phương có mặt, họ hứng nhiều tổn thất. Số quân bị loại khỏi vòng chiến đấu ngày một tăng, nhiều tàu chiến cũng bị bắn thủng, nước tràn vào đe dọa chìm.

Tại sao nguyễn tri phương thất thủ tại gia định và hà nội

Người dân đến xemtriển lãm 160 năm liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, khai mạc tạiHoà Vang hôm 29/8. Ảnh: Nguyễn Đông.

Gặp phải sự chống trả quyết liệt trong khi binh lính chán nản vì thiếu lương thực, bệnh tật và mất ăn mất ngủ,Rigault de Genouilly - Đề đốc tổng chỉ huy liên quân Pháp - Tây đã phải bỏ ý định đánh chớp nhoáng Đà Nẵng rồi tấn công kinh thành Huế như kế hoạch ban đầu.

Đầu tháng 2/1859, nhận được tinRigaultrút bớt lực lượng ở Đà Nẵng để tiến vào đánh chiếm Gia Định, Nguyễn Tri Phương lập tức cho quân tiến lên, thu nhỏ phạm vi hoạt động của địch, lập lại các đồn Phúc Ninh, Thạch Giản, Hải Châu. Ông cho đào phòng tuyến liên tiếp giữa đồn nọ với đồn kia, sát đến đồn Điện Hải nơi địch đang chiếm đóng để bố trí mai phục.

Dưới lòng sông Hàn, quân An Nam dùng xích sắt chắn ngầm ngang lòng sông Hàn để tàu chiến không thể vào sâu đất liền.Liên tiếp hai ngày 6 và 7/2/1859, quân đội triều Nguyễn dốc toàn lực đẩy quân của đại tá hải quân Toyon ra vùng cửa sông. Toyon phải đánh điện kêu cứu với Rigault.

Ở triều đình, trước tinh thần phần phấn khởi khi đẩy đuổi và vây hãm được giặc, vua Tự Đức đã ban cho tướng Nguyễn Tri Phương một thanh ngự kiếm (kiếm vua dùng) và sâm quế. Còn binh sĩ được thưởng 100 quan tiền và lệnh cho quan tỉnh Quảng Nam mua trâu, rượu về mở tiệc khao quân.

TướngRigault vì đã lỡ đem quân đánh Gia Định nên phải chờ xong nhiệm vụ mới trở ra Đà Nẵng tiếp cứu cho Toyon. Tuy nhiên, cuộc đánh chiếm lần hai không còn dễ dàng. Liên quân bị thiệt hại hàng trăm người trong tổng số khoảng 2.000 quân. Kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh củaRigault thất bại hoàn toàn.

Trận đánh ở đồn Liên Trì ngày 15/9/1859, do quân địch hỏa lực quá mạnh, quân ta bị thương vong hơn 100 người và gần 100 nhà dân bị đốt phá. Nguyễn Tri Phương đã thẳng thắn dâng sớ xin nhận tội. Vua đồng ý giáng chức nhưng vẫn để ông tiếp tục ở lại Đà Nẵng lập công chuộc tội. Khi chiến sự càng kéo dài, ưu thế chiến trường nghiêng dần về phía quân triều đình.

Chiến thắng liên tiếp của binh lính dưới sự chỉ huy của tướng Nguyễn Tri Phương đã buộc liên quân Pháp - Tây giậm chân tại chỗ trên doi đất nhỏ hẹp dưới chân núi Sơn Trà. Thiếu lương thực, thêm hàng trăm lính ốm, chết vì bệnh tả, Pháp hai lần xin nghị hòa để hoãn binh vàchấp nhận rút quân về nước ngày 23/3/1860.

Trong một báo cáo, tướngRigault de Genouilly viết: "Chính phủ đã nhầm về tính cách cuộc can thiệp ở Việt Nam... Người ta nói rằng xứ này không có binh lính, quân đội thì sự thật, quân đội ở đây rất dũng cảm". Và "không thể không công nhận rằng một cuộc chiến tranh chống nước này còn khó hơn là một cuộc chiến tranh chống vương quốc Trung Hoa".

Chống Pháp đến hơi thở cuối

Với chiến thắng ở Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương trở thành vị tướng đầu tiên giành thắng lợi trong công cuộc chống xâm lược từ phương Tây. Vị thế của ông trong mắt vua Tự Đức được nâng lên.

Tại sao nguyễn tri phương thất thủ tại gia định và hà nội

TượngNguyễn Tri Phươngtại lối vào thành Điện Hải. Ảnh: Nguyễn Đông.

Năm 1860, ông tiếp tục được giao trọng trách cầm quân chống Pháp ở Gia Định. Lần này, ông bị thương, thành Gia Định mất nên bị giáng chức. Về sau, Nguyễn Tri Phương được cử làm Kinh lược sứ Bắc Kỳ để đối phó với thực dân Pháp đang lăm le đánh thành Hà Nội.

Sáng 20/11/1873, Nguyễn Tri Phương chỉ huy chiến đấu ở Cửa Nam Thành khi quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội. Ông bị thương, bị bắt khi giặc chiếm được thành. Phía Pháp muốn cứu chữa hòng mua chuộc nhưng bất thành. Vị tướng già đã từ chối việc băng bó vết thương, tuyệt thực và nói rằng: "Nếu ta chỉ gắng sống lay lắt thì sao bằng ung dung chết vì việc nghĩa".

Tròn một tháng sau, ông qua đời.Vua Tự Đức cho lập đền thờ tại quê nhà và lệnh cho thờ ông ở đền Trung Nghĩa (Hà Nội). Lễ tế ở các đền thờ ông được tổ chức thường niên vào mùa xuân và mùa thu. Trong bài văn tế, vua Tự Đức đánh giá danh tướng Nguyễn Tri Phương là "bậc anh kiệt".

Ngày nay, làng Đường Long vẫn còn đền thờ vị danh tướng 15 năm ròng kháng Pháp. Tại cổng vào thành Điện Hải (Đà Nẵng), tượng Nguyễn Tri Phương uy nghi hướng mặt ra sông Hàn như một biểu tượng cho khí phách chống ngoại xâm, trung kiên bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Nguyễn Đông
Tư liệu do Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp