Tác dụng phụ của ARV kéo dài bao lâu

Khi bắt đầu điều trị HIV, bạn có thể gặp các tác dụng phụ nhẹ có thể kéo dài vài tuần và sau đó sẽ hết khi cơ thể thích nghi với thuốc.

Có thể kiểm soát những tác dụng phụ ngắn hạn này bằng một vài bước tự chăm sóc như:

  • Mệt mỏi: Cố gắng lên lịch nghỉ ngơi thêm và giảm bớt làm các công việc nặng…
  • Buồn nôn: Ăn nhiều bữa nhỏ và hạn chế thức ăn cay...
  • Tiêu chảy: Uống nhiều nước và đồ uống lành mạnh khác như nước hoa quả hoặc nước canh để thay thế lượng chất lỏng bị mất.
  • Nỗi mề đay: Tránh xa các sản phẩm có mùi thơm, cố gắng mắc quần áo làm từ sợi tự nhiên, mềm mại như bông và vải lanh.

Các tác dụng phụ tạm thời khác của điều trị HIV có thể bao gồm nhức đầu, sốt, đau cơ và chóng mặt. Hãy trao đổi với bác sĩ xem có an toàn khi dùng thuốc giảm đau không kê đơn để làm giảm những tác dụng phụ nhỏ này hay không.

Lưu ý, đôi khi các tác dụng phụ có vẻ nhẹ - như phát ban, sốt hoặc buồn nôn - có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn. Khi bắt đầu sử dụng thuốc điều trị HIV mới, hãy hỏi bác sĩ trong bao lâu các tác dụng phụ này giảm bớt trước khi tìm kiếm sự chăm sóc y tế.

Bất kỳ phản ứng dị ứng nào với thuốc - như sưng mặt hoặc xung quanh mắt, môi hoặc lưỡi - có thể đe dọa tính mạng và cần được chăm sóc y tế khẩn cấp.

2. Tác dụng phụ lâu dài của điều trị HIV

Thuốc điều trị HIV/AIDS có thể gây tác dụng phụ khi sử dụng

Các tác dụng phụ đáng kể hơn của việc điều trị HIV có thể phát triển theo thời gian. Điều quan trọng là phải trao đổi thường xuyên với bác sĩ hoặc nhóm chăm sóc, nếu có các bất thường trong quá trình dùng thuốc mà không được tự ý bỏ thuốc. Mặc dù các tác dụng phụ có thể nghiêm trọng nhưng hậu quả của việc không dùng thuốc điều trị HIV có thể tồi tệ hơn nhiều.

Những tác dụng phụ này có thể bao gồm:

3.1 Tăng cholesterol máu, một bất lợi của thuốc điều trị HIV

Một xét nghiệm máu đơn giản có thể kiểm tra những thay đổi này. Bạn có thể cần bắt đầu dùng thuốc điều trị cholesterol và tránh chất béo trong chế độ ăn uống hàng ngày.

3.2 Tăng đường máu

Tăng đường máu sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường. Để giảm nguy cơ này, cần phải điều chỉnh chế độ ăn uống và chế độ thuốc men.

3.3 Rối loạn phân bố mỡ

Tác dụng phụ này có thể dẫn đến tích tụ chất béo ở một số vùng nhất định của cơ thể, chẳng hạn như bụng và giảm mỡ ở những vùng khác như mặt và tay chân. Tập thể dục rèn luyện sức bền cũng như một số loại thuốc có thể giúp khắc phục vấn đề này.

3.4 Tích tụ axit lactic trong máu

Các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau dạ dày. Báo cáo những triệu chứng này cho bác sĩ càng sớm càng tốt.

3.5 Loãng xương

Những người đang áp dụng một số chế độ điều trị ARV có nguy cơ loãng xương khiến xương dễ gãy hơn. Thường xuyên kiểm tra mật độ xương. Các bước phòng ngừa bao gồm tập thể dục chịu được trọng lượng và một chế độ ăn uống tăng cường sức khỏe của xương.

3.6 Bệnh gan

Các dấu hiệu và triệu chứng bao gồm đau bụng, nước tiểu sẫm màu, vàng da và phân có màu sáng hoặc màu đất sét. Thông báo cho bác sĩ biết để được kiểm tra xem có cần phải điều trị hay không.

3. Rối loạn phân bố mỡ là gì?

HIV và một số loại thuốc được sử dụng để điều trị HIV/AIDS có thể dẫn đến mất chất béo (teo mỡ) hoặc sự di chuyển chất béo xung quanh cơ thể và lưu trữ chất béo ở những nơi bất thường - những thay đổi khác nhau này gọi chung là rối loạn phân bố mỡ.

Chất béo cũng có thể hình thành lắng đọng trên tim, gan hoặc trong máu, hoặc có thể tích tụ dưới dạng mỡ nội tạng xung quanh bụng hoặc các khu vực khác.

Thế hệ sớm nhất của ART chứa một số enzym ngăn chặn HIV được gọi là chất ức chế men sao chép ngược nucleoside gây ra các vấn đề như teo mỡ.

TS. Steven Grinspoon, từng là trưởng đơn vị chuyển hóa tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts ở Boston cho biết, ngày nay mối quan tâm mới nhất liên quan đến việc sử dụng các chất này là tăng cân. Hậu quả lâu dài về tim mạch của việc tăng cân sẽ khó lường.

Nghiên cứu cho thấy, có tới 32% người nhiễm HIV có tình trạng rối loạn phân bố mỡ (còn gọi là hội chứng tái phân bổ mỡ liên quan đến HIV, hoặc HARS), đôi khi được bệnh nhân gọi là "bụng cứng". Trong tình trạng này, chất béo tích tụ bên dưới cơ bụng và đôi khi ở lưng trên hoặc cổ. Chất béo sâu, hoặc mô mỡ nội tạng, có cảm giác cứng hơn chất béo nằm ngay dưới da. Đồng thời có thể khiến người bệnh bị mất lớp mỡ mềm ở mặt, tay, chân và mông.

HARS có thể gây ra các tác động tiêu cực hàng ngày về thể chất, từ gập người và khó thở đến các vấn đề về dạ dày như trào ngược axit, đau quặn bụng, loét dạ dày tá tràng, táo bón và tiêu chảy. Nó cũng có thể gây ra những hậu quả về mặt tinh thần, như trầm cảm và lo lắng do bị kỳ thị, cơ thể không hài lòng và mất khả năng vận động. Theo thời gian, bụng cứng có thể làm tăng nguy cơ viêm nhiễm, bệnh tim và gan, ung thư, thậm chí tử vong.

Nếu tình trạng mỡ bụng không biến mất sau khi thực hiện chế độ ăn kiêng và tập thể dục, hãy trao đổi với bác sĩ xem đó có thể là mô mỡ nội tạng hay không. Có thể dùng một số loại thuốc có thể nhắm vào lớp mỡ sâu này.

4. HIV kháng thuốc là gì?

HIV có thể đột biến gen, kháng lại thuốc điều trị

Tiến sĩ Grinspoon cho rằng, thay đổi loại thuốc để tránh một số tác dụng phụ nhất định không phải lúc nào cũng là giải pháp tốt nhất. Với điều trị HIV, bạn có thể phát triển khả năng kháng lại các liệu pháp điều trị nếu bạn tiếp tục chuyển đổi các liệu pháp điều trị.

Tình trạng kháng thuốc ở HIV thường xảy ra khi virus có cơ hội đột biến (tạo ra các biến thể mới của chính nó) và nhân lên khiến cho thuốc điều trị không còn tác dụng nữa. Nguy cơ kháng thuốc tăng lên khi không dùng thuốc điều trị HIV đúng theo chỉ dẫn, hoặc bỏ liều, bắt đầu và ngừng sử dụng ART, hoặc thường xuyên chuyển đổi thuốc.

Nếu bạn thấy các thuốc trị HIV của mình không còn hiệu quả, hãy trao đổi với bác sĩ. Xét nghiệm máu có thể xác định tình trạng kháng thuốc và giúp xác định các lựa chọn điều trị HIV hiệu quả khác cho bạn.

Mời độc giả xem thêm video:

Thuốc Molnupiravir được Bộ Y tế cấp phép

DS Hoàng Thu Thủy

09/08/2021 | 11530 lượt xem | Kiều Trang

Dự phòng trước phơi nhiễm HIV bằng thuốc ARV (PrEP) đã được sử dụng rất phổ biến tại Việt Nam, hiện nay có hàng chục ngàn người đang sử dụng thuốc ARV để dự phòng lây nhiễm HIV trên toàn quốc. Tuy nhiên những người mong muốn sử dụng cần lưu ý gì để giảm các tác dụng không mong muốn và đạt hiệu quả cao khi sử dụng.

1. Không sử dụng thuốc ARV điều trị cho người nhiễm HIV để dự phòng trước phơi nhiễm HIV Như chúng ta biết hiện nay thuốc ARV đang được sử dụng với 2 mục đích: - Cho người chưa nhiễm HIV: Để dự phòng không bị nhiễm HIV. - Cho người đã nhiễm HIV để ức chế vi rút HIV không nhân lên từ đó giúp người nhiễm HIV sống khỏe mạnh và không làm lây truyền HIV sang người khác. Dự phòng trước phơi nhiễm HIV (Pre-Exposure Prophylaxis - PrEP) là sử dụng thuốc ARV cho người chưa nhiễm HIV nhưng có hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV để dự phòng lây nhiễm HIV. Thuốc kháng vi rút sử dụng trong PrEP là thuốc có chứa Tenofovir và tùy theo từng quốc gia hoặc phác đồ sử dụng, có thể các bác sĩ kê đơn (toa) sử dụng 1 hoặc 2 loại thuốc kháng HIV. Các phác đồ phối hợp hay sử dụng là TDF/FTC (300mg/200mg) hoặc TDF/3TC (300mg/300mg) hoặc TDF (300mg). Việt Nam, chương trình PrEP đang sử dụng chủ yếu là loại phối hợp 2 thuốc: Tenofovir và Emtricitabine (TDF/FTC).

 


Truvada – một loại thuốc dự phòng trước phơi nhiễm HIV Còn thuốc kháng vi rút sử dụng điều trị cho người nhiễm HIV được phối hợp 3 loại thuốc khác nhau, cho người lớn sử dụng phác đồ bậc 1 thường phối hợp các thuốc như: TDF + 3TC (hoặc FTC) + DTG1 hoặc TDF + 3TC + EFV 400 mg hoặc TDF + 3TC (hoặc FTC) + EFV 600mg v.v… Như vậy tuy có chung là thuốc kháng vi rút nhưng mục đích điều trị khác nhau nên cách phối hợp thuốc trong điều trị khác nhau. Vì vậy người chưa nhiễm HIV sử dụng thuốc ARV để dự phòng trước phơi nhiễm HIV không thể sử dụng thuốc của người nhiễm HIV và ngược lại. Việc sử dụng không đúng sẽ có thể làm cho việc dự phòng hay điều trị không có hiệu quả mà còn có thể có tác dụng không mong muốn. Bất cứ ai muốn sử dụng thuốc ARV để dự phòng trước phơi nhiễm HIV cần được khám, xét nghiệm và tư vấn, kê đơn bởi các bác sĩ chuyên khoa điều trị HIV/AIDS.

2. Không tùy tiện phác đồ PrEP hàng ngày sang ED PrEP (PrEP tình huống)

Hiện nay PrEP sử dụng hàng ngày để để dự phòng lây nhiễm HIV cho một số  nhóm sau: - Nam có quan hệ tình dục đồng giới. - Người chuyển giới nữ. - Người bán dâm. - Người tiêm chích ma túy. - Bạn tình của người nhiễm HIV mà người nhiễm HIV đó chưa điều trị ARV hoặc điều trị ARV nhưng tải lượng HIV chưa đạt dưới ngưỡng phát hiện (cón ≥ 200 bản sao/ml máu); Như vậy PrEP hàng ngày có thể chỉ định cho tất cả người đủ tiêu chuẩn điều trị PrEP. Người sử dụng PrEP sẽ uống thuốc hàng ngày, mỗi ngày một viên và cần uống vào một thời điểm nhất định để tạo ra thói quen uống thuốc đều đặn. Nếu quên liều, cần uống ngay khi nhớ ra. Tuy nhiên không được uống quá 2 liều trong một ngày (trong 24 giờ). Tuy nhiên sử dụng PrEP theo tình huống ED PrEP chỉ được chỉ định sử dụng cho nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) nhưng không có quan hệ tình dục thường xuyên (tần suất quan hệ tình dục trung bình dưới 2 lần/tuần). Khách hàng đủ tiêu chuẩn sử dụng PrEP nếu muốn  sử dụng PrEP theo tình huống, sẽ được bác sĩ tư vấn trước khi đưa ra quyết định. Cách sử dụng PrEP uống theo tình huống: sử dụng theo công thức: 2 + 1 + 1 tức là: - Uống 2 viên (liều đầu tiên) trước khi quan hệ tình dục từ 2 - 24 giờ.  - Uống viên thứ 3: sau 24 giờ tính từ khi uống liều đầu tiên 

- Uống viên thứ 4: sau 24 giờ tính từ khi uống liều thứ hai. 

Như vậy sử dụng PrEP theo tình huống chỉ sử dụng cho nam quan hệ tình dục đồng giới, do vậy việc chuyển đổi từ sử dụng PrEP hàng ngày sang sử dụng theo tình huống và ngược lại cũng chỉ áp dụng với  đối tượng là nam quan hệ tình dục đồng giới. Việc sử dụng cũng cần lưu ý như sau: - Đang sử dụng PrEP hàng ngày có thể chuyển đổi sang PrEP theo tình huống khi tần suất quan hệ tình dục trung bình dưới 2 lần/tuần và bảo đảm uống thuốc trước 24 giờ hoặc chậm nhất là 2 giờ trước khi quan hệ tình dục. - Chuyển đổi từ PrEP tình huống sang PrEP hàng ngày nếu tần suất quan hệ tình dục từ 2 lần trở lên trong một tuần. Tất cả nam quan hệ tình dục đồng giới muốn chuyển đổi cần thảo luận với bác sĩ và tuân thủ điều trị theo đúng hướng dẫn của thầy thuốc.

3. Đã là thuốc, việc sử dụng cần có chỉ định của thầy thuốc, không tự ý sử dụng

PrEP được chỉ định cho người lớn hoặc vị thành niên có các tiêu chuẩn sau: - Xét nghiệm HIV âm tính và, - Trong vòng 6 tháng qua có ít nhất một yếu tố dưới đây: o    Có bạn tình nhiễm HIV chưa điều trị ARV hoặc điều trị ARV nhưng tải lượng HIV ≥ 200 bản sao/ml hoặc chưa được xét nghiệm tải lượng HIV; o    Có quan hệ tình dục với người thuộc nhóm nguy cơ cao nhiễm HIV (người tiêm chích ma túy, nam quan hệ tình dục đồng giới…); o    Có một trong các yếu tố sau: 1) quan hệ tình dục đường hậu môn hoặc âm đạo không sử dụng bao cao su với hơn 01 bạn tình; 2) đã mắc hoặc đang điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; 3) đã sử dụng PEP; 4) Có quan hệ tình dục để đổi lấy tiền hoặc hiện vật; 5) có sử dụng ma túy đá trong khi quan hệ tình dục; 6) có nhu cầu sử dụng PrEP; o    Dùng chung bơm kim tiêm hoặc dụng cụ tiêm chích. PrEP không chỉ định điều trị PrEP cho các trường hợp sau: - HIV dương tính; - Độ thanh thải creatinin ước tính < 60 ml/phút; - Có dấu hiệu nhiễm HIV cấp hoặc có khả năng mới nhiễm HIV; - Dị ứng hoặc có chống chỉ định với bất kỳ thuốc nào trong phác đồ PrEP; - Dưới 35 kg Một điểm cũng cần lưu ý nữa là không chỉ định PrEP nếu có phơi nhiễm với HIV trong vòng 72 giờ qua. Cũng không cần chỉ định PrEP nếu chỉ có một bạn tình duy nhất, xét nghiệm tải lượng HIV của bạn tình nhiễm HIV đang điều trị ARV <200 bản sao/ml và tuân thủ điều trị tốt. Với người muốn sử dụng PrEP theo tình huống cũng chỉ có chỉ định cho nam quan hệ tình dục đồng giới có chỉ định dùng PrEP và khi có tần suất quan hệ tình dục trung bình dưới 2 lần/tuần; đảm bảo được việc dùng thuốc PrEP trong vòng 2-24 giờ trước khi quan hệ tình dục. Không sử dụng PrEP theo tình huống cho các tình huống: Phụ nữ hoặc người chuyển giới nữ; Chuyển giới nam có quan hệ tình dục qua đường âm đạo; Nam quan hệ tình dục với nữ qua đường âm đạo/hậu môn; Người có mắc viêm gan B mạn tính; Người tiêm chích ma túy.

4. Không phải sử dụng thuốc sẽ có tác dụng ngay

Vì là dự phòng trước phơi nhiễm HIV nên chắc chắn cần phải sử dụng thuốc ARV trước khi phơi nhiễm HIV (trước quan hệ tình dục). Đối với người có nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục đường âm đạo hoặc qua đường máu: PrEP chỉ có tác dụng bảo vệ tối đa sau khi sử dụng đủ 21 ngày thuốc ARV liên tục. Đối với nam quan hệ tình dục đồng giới qua hậu môn: hiệu quả tối đa sau 7 ngày uống liên tục hoặc uống 2 viên TDF/FTC trước khi quan hệ tình dục 2 -24 giờ. 

Một vấn đề khác cần lưu ý đối với người quan hệ tình dục qua đường âm đạo và nguy cơ lây nhiễm qua đường máu: PrEP cần được tiếp tục sử dụng đến hết 28 ngày sau lần phơi nhiễm cuối cùng. Đối với người nam quan hệ tình dục đồng giới qua hậu môn: cần tiếp tục sử dụng thuốc PrEP 2 ngày sau lần quan hệ tình dục cuối cùng. 

 
5. Thuốc nào cũng có tác dụng phụ không mong muốn Hầu hết những người sử dụng PrEP không gặp tác dụng phụ nào nghiêm trọng. Tuy nhiên có một số ít người có thể gặp phải một số tác dụng phụ như: buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng, chóng mặt, đau đầu, chán ăn...Thông thường, các tác dụng phụ này sẽ hết sau một đến hai tuần. Cần gọi điện và đến gặp bác sĩ ngay nếu những biểu hiện này kéo dài và ảnh hưởng đến sinh hoạt của khách hàng. Với những người sử dụng PrEP trong thời gian dài có thể gây loãng xương hoặc ảnh hưởng đến thận tuy nhiên rất ít gặp. Vì vậy, người sử dụng PrEP được khám, xét nghiệm trước khi sử dụng và cần theo dõi định kỳ.

6. Sử dụng PrEP vẫn cần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục 

Người sử dụng PrEP vẫn cần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, bởi vì: - PrEP giúp phòng lây nhiễm HIV mà không phòng được các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác, không có tác dụng tránh thai. Vì vậy sử dụng bao cao su song song với sử dụng PrEP giúp dự phòng các bệnh lây truyền qua đường tình dục như lậu, giang mai viêm gan B, C...và tránh mang thai ngoài ý muốn.  

- PrEP làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV nhưng vẫn có một tỷ lệ nhỏ có khả năng lây nhiễm. Vì vậy để an toàn, bạn luôn sử dụng PrEP và sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục như biện pháp bổ sung cho nhau.

Video liên quan

Chủ đề