So sánh tạm ngừng đình chỉ hủy bỏ hợp đồng năm 2024

(LSVN) - Chế tài thương mại là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Chế tài thương mại xác định hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp Luật Thương mại khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại.

So sánh tạm ngừng đình chỉ hủy bỏ hợp đồng năm 2024

Ảnh minh họa.

Chế tài trong thương mại

- Các loại chế tài trong thương mại được quy định tại Điều 292, Luật Thương mại năm 2005, bao gồm:

- Buộc thực hiện đúng hợp đồng;

- Phạt vi phạm;

- Buộc bồi thường thiệt hại;

- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng;

- Đình chỉ thực hiện hợp đồng;

- Hủy bỏ hợp đồng.

- Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

Các hình thức chế tài thương mại

Buộc thực hiện đúng hợp đồng:

Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng để các bên đạt được lợi ích mà họ mong muốn từ việc ký kết và thực hiện hợp đồng.

Luật Thương mại quy định trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng các chế tài khác ngoài chế tài bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng (khoản 1, Điều 299, Luật Thương mại năm 2005). Như vậy, pháp luật cho phép trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đông, bên bị vi phạm vẫn có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia gây ra và phạt hợp đồng đối với bên đó. Điều này khác với quy định của Luật Thương mại năm 1997, khi Điều 225 luật này không cho phép áp dụng các chế tài khác khi đang trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Với quy định mới của Luật Thương mại năm 2005, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở nên phù hợp hơn với thực tiễn.

Bởi vì trên thực tế, một khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng, tức là hợp đồng đã không được thực hiện đúng như thỏa thuận thì việc yêu cầu thực hiện chính xác như trong hợp đồng gần như là điều không thể, vì đã có sự vi phạm nội dung nào đó của hợp đồng như giao hàng chậm, hàng không đủ số lượng hay không đúng chất lượng... Cho dù bên vi phạm có thực hiện thì cũng không thể đúng hoàn toàn theo thỏa thuận, chí ít là cũng chậm so với thời hạn.

Nếu trong thời hạn mà bên bị vi phạm ẩn định để bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng mà bên này vẫn không thực hiện thì bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình (khoản 2, Điều 299, Luật Thương mại năm 2005).

Phạt vi phạm hợp đồng:

Phạt vi phạm là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng. Ở Việt Nam, đây là chế tài tiền tệ được xây dựng nhằm hai mục đích:

- Răn đe, phòng ngừa vi phạm và giáo dục ý thức tuân thủ các cam kết đã ghi nhận trong hợp đồng;

- Trừng phạt bên có hành vi vi phạm hợp đồng.

Theo pháp luật Việt Nam, phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận (khoản 1, Điều 418, Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 300, Luật Thương mại năm 2005). Chế tài phạt vi phạm chỉ có thể được áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận; nếu hợp đồng không thỏa thuận, pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đó cũng không quy định cụ thể về phạt vi phạm thì không được áp dụng chế tài này. Như vậy, cả Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đều thống nhất ở điểm: Để áp dụng chế tài phạt vi phạm nhất thiết phải có sự thỏa thuận của các bên.

Thương mại năm 2005 khống chế mức phạt vi phạm hợp đồng tối đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (Điều 301). Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung: Các bên có thể thỏa thuận mức phạt, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Có nghĩa là nếu luật liên quan có quy định mức phạt tối đa thì các bên không được thỏa thuận quá mức giới hạn đó. Luật Xây dựng quy định mức phạt tối đa không quá 12% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm.

Trường hợp ngoại lệ duy nhất quy định trong Luật Thương mại là mức phạt đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình không được vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định (Điều 266).

Căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm là có hành vi vi phạm hợp đồng và có thỏa thuận của các bên. Luật Thương mại năm 2005 đã bỏ yếu tố lỗi như một căn cứ xác định trách nhiệm phạt vi phạm cũng như bồi thường thiệt hại. Nếu như chế tài hình sự, hành chính đòi hỏi phải chứng minh lỗi, trong quan hệ hợp đồng do luật tư điều chỉnh có cách tiếp cận khác, đố là trách nhiệm của nhà kinh doanh không phụ thuộc vào lỗi, tức là đối với họ lỗi được coi là suy đoán. Bởi lẽ thương nhân là người kinh doanh chuyên nghiệp, buộc phải luôn thể hiện sự quan tâm và cân trọng cao nhất có thể để thực hiện các nghĩa vụ của mình nên khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng thì đương nhiên coi như họ có lỗi, trừ khi họ chứng minh được là mình không có lỗi.

Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng :

Khoản 1, Điều 302, Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thẩt do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm".

Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại được coi là nghĩa vụ mới của bên vi phạm thay thế cho nghĩa vụ không được thực hiện hoặc bổ sung cho nghĩa vụ không được thực hiện đúng, vấn đề bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi bên bị vi phạm có thiệt hại thực tế. Vì thế, mức bồi thường phải được tính toán đầy đủ, bao gồm tổn thất thực tế mà bên bị vi phạm gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia và khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ mà bên bị vi phạm có thể nhận được nếu bên kia thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Do mang tính bù đắp nên số tiền phải bồi thường không thể vượt quá số tiền thiệt hại thực tế. Đây là nguyên tắc xác định mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đông, từ đó hạn chế mức bồi thường không lớn hon mức thiệt hại của bên bị vi phạm.

Giá trị bôi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (khoản 2, Điều 302). Kể cả khi đã áp dụng các chế tài khác, bên bị vi phạm vẫn không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia (Điều 316, Luật Thương mại năm 2005).

Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại (Điều 304 Luật Thương mại năm 2005).

Điều 306, Luật Thương mại năm 2005 đã quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quả hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tưomg ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác".

Theo Điều 303, Luật Thương mại năm 2005, căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại gồm 03 yếu tố: Có hành vi vi phạm hợp đồng , có thiệt hại thực tế xảy ra, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại:

Mối quan hệ giữa bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm được quy định trong cả Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại. Theo Luật Thương mại năm 2005, trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Nếu các bên không thỏa thuận phạt vi phạm thì chỉ được yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 307 Luật Thương mại năm 2005).

Hủy bỏ hợp đồng :

Hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực (Điều 312 Luật Thương mại năm 2005).

Việc hủy hợp đồng thường được áp dụng khi hợp đồng chưa được thực hiện. Trong trường hợp hợp đồng đang thực hiện thì áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng. Sau khi hủy bỏ hợp đông, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Nếu có thiệt hại phát sinh từ việc hủy bỏ hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 314, Luật Thương mại năm 2005).

Chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp:

- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng;

- Hoặc Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

Tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng:

- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng:

Đây là chế tài mới quy định trong Luật Thương mại năm 2005. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện nhưng vẫn còn hiệu lực và hoàn toàn có thể tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên Luật Thương mại không chỉ rõ điều kiện để tiếp tục thực hiện hợp đồng, về nguyên tắc, nguyên nhân nào khiến hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì khi đã loại trừ và xử lý được nguyên nhân đó, hợp đồng phải được tiếp tục thực hiện.

Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng khi rơi vào các trường hợp sau đây: Xảy ra hành vi vi phạm mà cảc bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Bên bị vi phạm dẫn tới việc phải tạm ngừng thực hiện hợp đồng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

- Đình chỉ thực hiện hợp đồng:

Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;

+ Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Đình chỉ thực hiện khác tạm ngừng thực hiện ở chỗ hợp đồng không có cơ hội tiếp tục được thực hiện, hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng về bản chất giống chế tài đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo Điều 428 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hay hủy bỏ hợp đồng là các hành vi pháp lý đơn phương của bên bị vĩ phạm khi có đủ điều kiện theo pháp luật quy định. Mặc dù pháp luật cho phép bên bị vi phạm hợp đồng có quyền tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hay hủy bỏ hợp đồng nhưng để tránh sự lạm dụng chế tài từ phía bên bị vi phạm, bên bị vi phạm có nghĩa vụ thông báo ngay cho bên vi phạm biết về việc tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ hợp đồng. Trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại.

Thực tiễn áp dụng

Thứ nhất, về chế tài “Buộc thực hiện đúng hợp đồng”

Theo quy định tại Điều 297, Luật Thương mại năm 2005, “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Như vậy, một phần trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng thể hiện tính không khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiện đúng hợp đồng” là khó có thể thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. (Ví dụ: Trong hợp đồng có thỏa thuận thời gian giao hàng vào 08h sáng ngày 01/01/2013) thì khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn thì hợp đồng đó không thể “thực hiện đúng hợp đồng” được nữa vì các bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng để thực hiện đúng hợp đồng.

Thứ hai, về chế tài phạt vi phạm hợp đồng

Theo quy định tại Điều 301, Luật Thương mại năm 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Theo quy định này có thể hiểu, các thương nhân được quyền tự do thỏa thuận trong hợp đồng về chế tài phạt vi phạm cũng như mức phạt đối với các hành vi vi phạm, tuy nhiên, mọi thỏa thuận về mức phạt vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ không được phép.

Về mặt nguyên tắc pháp lý, bất kỳ một thỏa thuận vượt quá mức phạt mà luật quy định như trên sẽ bị coi là vô hiệu và không có giá trị áp dụng. Tuy nhiên, xét về khía cạnh bản chất của thỏa thuận và tôn trọng ý chí, sự tự do thỏa thuận của các bên khi ký kết hợp đồng, trong quá trình giải quyết các vụ việc thực tế, các cơ quan giải quyết tranh chấp thường không tuyên thỏa thuận trên là vô hiệu, mà chỉ không thừa nhận hiệu lực của thỏa thuận đối với phần vượt quá 8%, theo đó, bên vi phạm vẫn phải chịu mức phạt cao nhất là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, tức là, nếu trong hợp đồng các bên thỏa thuận tổng mức phạt lên đến 100% giá trị hợp đồng thì khi áp dụng phạt trên thực tế, cơ quan giải quyết tranh chấp chỉ yêu cầu bên vi phạm chịu mức phạt là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Thứ ba, về hậu quả pháp lý của hình thức huỷ bỏ hợp đồng

Theo quy định tại Điều 312, Luật Thương mại, hủy bỏ hợp đồng là việc “bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng” (hủy bỏ toàn bộ) hoặc “bãi bỏ một phần nghĩa vụ hợp đồng”, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực (hủy bỏ một phần)”.

Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng là “hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp” (khoản 1, Điều 314, Luật Thương mại).

Như vậy, về mặt nguyên tắc, hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng giống như trong trường hợp hợp đồng bị vô hiệu, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, cách quy định này có một số bất cập tại khoản 2 và khoản 3, Điều 314, Luật Thương mại. Theo đó Luật Thương mại quy định, “các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền” và “Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này”.

Thứ tư, về mối quan hệ giữa các loại chế tài trong thương mại

Mối quan hệ giữa các loại chế tài trong thương mại vẫn còn một số bất cập thể hiện trên các khía cạnh sau đây:

Về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài buộc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 307 như sau:

- Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

- Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

Trong quy định này, chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng đồng thời với chế tài buộc bồi thường thiệt hại, hay nói cách khác, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm không làm mất quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, nội dung này đã được ghi nhận trong Điều 316: “Một bên không bị mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Như vậy, theo quy định tại Điều 316, thì chế tài buộc bồi thường thiệt hại có thể áp dụng cùng một lúc với các chế tài khác bao gồm chế tài phạt vi phạm. Do đó, việc đặt ra một điều luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại như trong Điều 307 là không cần thiết.

Tạm ngưng thực hiện hợp đồng khi nào?

Theo đó, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng. Căn cứ áp dụng tạm ngừng thực hiện hợp đồng: Trường hợp 1: Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Trường hợp 2: Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.null2 trường hợp được tạm ngừng thực hiện hợp đồng - Luật Thái Anluatthaian.vn › hop-dong › tam-ngung-thuc-hien-hop-dongnull

Đình chỉ thực hiện hợp đồng là gì?

Đình chỉ hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ khi bên còn lại có hành vi vi phạm hợp đồng thuộc một trong hai trường hợp sau: Thứ 1: Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận hành vi đó là điều kiện để đình chỉ hợp đồng. Thứ 2: Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.nullĐình chỉ hợp đồng là gì? Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ hợp đồngicontract.com.vn › tin-tuc › dinh-chi-hop-dong-la-ginull

Như thế nào là vi phạm cơ bản?

Theo khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, “vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”.null064 | Điều kiện hủy bỏ hợp đồng: Phải có vi phạm cơ bản (nghiêm trọng)www.viac.vn › thu-tuc-trong-tai › 064-|-dieu-kien-huy-bo-hop-dong-phai-...null

Có bao nhiêu loại chế tải trong thương mại?

Theo Điều 292 Luật Thương mại 2005 quy định có các loại chế tài sau:.

Buộc thực hiện đúng hợp đồng..

Phạt vi phạm..

Buộc bồi thường thiệt hại..

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng..

Đình chỉ thực hiện hợp đồng..

Huỷ bỏ hợp đồng..