Phương pháp ám thị trực tiếp được sử dụng khi

Theo định nghĩa của từ điển thuật ngữ tâm lý học (GS. TS Vũ Dũng chủ biên): ám thị là quá trình tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lý con người nhằm mục đích điều khiển họ thực hiện những yêu cầu nhất định.

Trong trạng thái bị ám thị, năng lực ý thức, tính phê phán của người bị ám thị đối với những Nội dung bị ám thị giảm đi rõ rệt. Những Nội dung này được cá nhân lĩnh hội một cách tự động, rất khó bị phê phán, suy xét, phân tích một cách logic.

Ám thị là một thành tố của giao tiếp, song nó cũng có thể được tổ chức, xây dựng thành một dạng giao tiếp đặc biệt, thường được sử dụng trong lĩnh vực y học, Tôn giáo… Phương tiện được sử dụng trong ám thị có thể là ngôn ngữ và Phi ngôn ngữ (nét mặt, điệu Bộ…). Chủ thể gây ám thị có thể là một cá nhân hay một nhóm.

Dựa theo phương thức tác động lên tâm lý có thể chia thành ám thị trực tiếp và ám thị gián tiếp.

  • ám thị trực tiếp là quá trình sử dụng những mệnh lệnh, yêu cầu tác động trực tiếp lên tâm lý của đối tượng.
  • trong ám thị gián tiếp, thông tin được đưa ra dưới dạng ẩn hoặc che giấu, làm cho đối tượng không ý thức được mục đích, yêu cầu của người ám thị và tiếp nhận nó một cách từ từ, không chủ định.

Dựa theo trạng thái của người bị ám thị, có thể chia thành: ám thị khi thức, ám thị trong thôi miên, ám thị sau thôi miên, ám thị trong giấc ngủ sinh lý.

Ám thị được sử dụng nhiều trong lĩnh vực y học. Nó có thể là thành tố trong giao tiếp thầy thuốc – bệnh nhân hoặc có thể được sử dụng như một Kỹ thuật liệu pháp tâm lý. Trong giáo dục học, người ta cũng đã có ý định  sử dụng ám thị để dạy học, đặc biệt là dùng ám thị trong thôi miên để dạy ngoại ngữ, chơi cờ hoặc phát triển một năng lực đặc biệt nào đó.

Hiệu quả của ám thị được quy định bởi

  1.  Những phẩm chất của người ám thị, vị thế xã hội, khả năng truyền cảm, những ưu thế về tính cách, ý chí và trí tuệ
  2. Những đặc điểm cá nhân người bị ám thị, trong đó nổi bật nhất là khả năng ám thị
  3. Mối quan hệ giữa người ám thị và người bị ám thị: sự phụ thuộc, tự chủ, tin tưởng
  4. Phương thức thiết kế giao tiếp (các bằng chứng thuyết phục, sự kết hợp giữa thành tố trí tuệ và cảm xúc, các tác động củng cố)

Định nghĩa Ám thị trong Từ điển thuật ngữ Tâm lý học do GS. TS Vũ Dũng chủ biên.

Tự ám thị

Tự ám thị là quá trình ám thị hướng vào chính bản thân mình, khi đó chủ thể và khách thể tác động ám thị trùng nhau.

Tự ám thị nâng cao mức độ tự điều chỉnh, cho phép chủ thể tạo ra cho mình những cảm giác và tri giác khác nhau, điều khiển các quá trình chú ý, trí nhớ, các phản ứng cảm xúc và các phản ứng Xô ma. Tự ám thị có chủ định đạt được bằng tự chỉ thị dưới dạng lời nói và tái tạo tư duy những tình huống có ý nghĩa liên quan đến nhu cầu thay đổi trạng thái tâm lý và sinh lý. Trí tưởng tượng giàu có, tính mềm dẻo về tâm lý tạo điều kiện cho tự ám thị có chủ định đạt được hiệu quả. Tự ám thị không có chủ định được đặc trưng bởi thái độ thiếu phê phán của chủ thể đối với những tư tưởng, những quan điểm, những đánh giá của mình, thiếu sự hoài nghi của tính đúng đắn và chính xác của chúng vì giảm bớt những chức năng kiểm tra của ý thức. Kết quả của tự ám thị không có chủ định đôi khi ảnh hưởng đến tính ổn định của hoạt động tâm lý. Tự ám thị có thể sử dụng như một phương pháp đo tâm lý trong thể thao và trong giáo dục.

Nguồn: Từ điển thuật ngữ Tâm lý học – GS. TS. Vũ Dũng

3,055 người xem

Theo định nghĩa của từ điển thuật ngữ tâm lý học (GS. TS Vũ Dũng chủ biên): ám thị là quá trình tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm lý con người nhằm mục đích điều khiển họ thực hiện những yêu cầu nhất định.

Bạn đang xem: Ám thị trong giao tiếp

Trong trạng thái bị ám thị, năng lực ý thức, tính phê phán của người bị ám thị đối với những Nội dung bị ám thị giảm đi rõ rệt. Những Nội dung này được cá nhân lĩnh hội một cách tự động, rất khó bị phê phán, suy xét, phân tích một cách logic.

Ám thị là một thành tố của giao tiếp, song nó cũng có thể được tổ chức, xây dựng thành một dạng giao tiếp đặc biệt, thường được sử dụng trong lĩnh vực y học, Tôn giáo… Phương tiện được sử dụng trong ám thị có thể là ngôn ngữ và Phi ngôn ngữ (nét mặt, điệu Bộ…). Chủ thể gây ám thị có thể là một cá nhân hay một nhóm.

Dựa theo phương thức tác động lên tâm lý có thể chia thành ám thị trực tiếp và ám thị gián tiếp.

ám thị trực tiếp là quá trình sử dụng những mệnh lệnh, yêu cầu tác động trực tiếp lên tâm lý của đối tượng.trong ám thị gián tiếp, thông tin được đưa ra dưới dạng ẩn hoặc che giấu, làm cho đối tượng không ý thức được mục đích, yêu cầu của người ám thị và tiếp nhận nó một cách từ từ, không chủ định.

Dựa theo trạng thái của người bị ám thị, có thể chia thành: ám thị khi thức, ám thị trong thôi miên, ám thị sau thôi miên, ám thị trong giấc ngủ sinh lý.

Ám thị được sử dụng nhiều trong lĩnh vực y học. Nó có thể là thành tố trong giao tiếp thầy thuốc – bệnh nhân hoặc có thể được sử dụng như một Kỹ thuật liệu pháp tâm lý. Trong giáo dục học, người ta cũng đã có ý định sử dụng ám thị để dạy học, đặc biệt là dùng ám thị trong thôi miên để dạy ngoại ngữ, chơi cờ hoặc phát triển một năng lực đặc biệt nào đó.

Hiệu quả của ám thị được quy định bởi

Những phẩm chất của người ám thị, vị thế xã hội, khả năng truyền cảm, những ưu thế về tính cách, ý chí và trí tuệNhững đặc điểm cá nhân người bị ám thị, trong đó nổi bật nhất là khả năng ám thịMối quan hệ giữa người ám thị và người bị ám thị: sự phụ thuộc, tự chủ, tin tưởngPhương thức thiết kế giao tiếp (các bằng chứng thuyết phục, sự kết hợp giữa thành tố trí tuệ và cảm xúc, các tác động củng cố)

Định nghĩa Ám thị trong Từ điển thuật ngữ Tâm lý học do GS. TS Vũ Dũng chủ biên.

Tự ámthị

Tự ám thị là quá trình ám thị hướng vào chính bản thân mình, khi đó chủ thể và khách thể tác động ám thị trùng nhau.

Xem thêm: Top 20 Game Kinh Dị Hay Nhất Trên Android Hiện Nay, Game Kinh Dị

Tự ám thị nâng cao mức độ tự điều chỉnh, cho phép chủ thể tạo ra cho mình những cảm giác và tri giác khác nhau, điều khiển các quá trình chú ý, trí nhớ, các phản ứng cảm xúc và các phản ứng Xô ma. Tự ám thị có chủ định đạt được bằng tự chỉ thị dưới dạng lời nói và tái tạo tư duy những tình huống có ý nghĩa liên quan đến nhu cầu thay đổi trạng thái tâm lý và sinh lý. Trí tưởng tượng giàu có, tính mềm dẻo về tâm lý tạo điều kiện cho tự ám thị có chủ định đạt được hiệu quả. Tự ám thị không có chủ định được đặc trưng bởi thái độ thiếu phê phán của chủ thể đối với những tư tưởng, những quan điểm, những đánh giá của mình, thiếu sự hoài nghi của tính đúng đắn và chính xác của chúng vì giảm bớt những chức năng kiểm tra của ý thức. Kết quả của tự ám thị không có chủ định đôi khi ảnh hưởng đến tính ổn định của hoạt động tâm lý. Tự ám thị có thể sử dụng như một phương pháp đo tâm lý trong thể thao và trong giáo dục.


----------------------------

Hợp Tác Cùng elaopa.org Truyền Thông Miễn Phí - Trả Phí Theo Yêu Cầu tại //bit.ly/elaopa.org-Partnership

(Last Updated On: 02/08/2021)

Ám thị là dùng lời nói, việc làm, hành vi cử chỉ tác động vào tâm lý của một cá nhân hoặc một nhóm người làm cho họ tiếp thu thông tin mà không có sự phê phán.

Có thể tiến hành ám thị lúc con người tỉnh táo hoặc trong trạng thái thôi miên.

Ám thị thường đi kèm với quá trình giao tiếp. Nó có thể mang tính chất trực tiếp hoặc gián tiếp, tích cực hoặc tiêu cực, trọn vẹn hay không trọn vẹn. Ám thị trực tiếp là tác động trong đó người này thông báo cho người kia – dưới hình thức mệnh lệnh thực hành – những ý nghĩ nhất định, khiến người kia phải tiếp nhận và thực hiện không bàn cãi. Ám thị gián tiếp thì phải đi theo dường vòng để đạt mục đích trên.

Trong kinh doanh, ám thị thường được sử dụng qua tác động của quảng cáo (lặp di lặp lại một câu nói hay một hình ảnh, dựa vào thời trang, vào uy tín của đơn vị sản xuất…) khi đưa cho khách món hàng được gói bọc cẩn thận kèm theo những lời lẽ như “thật cứ như hàng may đo ấy”, “món quà tặng tuyệt vời” thì thực ra người bán hàng đang tạo cho khách hàng niềm tin là mình đã quyết định đúng.

Tính bị ám thị phụ thuộc vào từng người, từng lứa tuổi, giới tính và từng hoàn cảnh. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì tính bị ám thị của con người tăng lên khi người ta đang hoang mang dao động, đang trông chờ, đang đi tìm một lối thoát, khi họ đang bị chi phối bởi một nhu cầu mãnh liệt nào đó. Thực tế cũng cho thấy rằng, tuổi càng cao, kinh nghiệm càng nhiều thì tính bị ám thị cũng giảm đi, phụ nữ thường dễ bị ám thị hơn nam giới. Uy tín của nhà lãnh đạo cũng có sức ám thị mạnh đến nhân viên. Nếu nhà lãnh đạo có uy tín tuyệt đối đối với nhân viên thì mọi chỉ thị, mệnh lệnh đều được nhân viên tiếp thu, thực hiện một cách tự giác.

III. Các phương pháp tác động tâm lý – Nội dung này nằm trong Chương II: Cấu trúc tâm lý hoạt động tư pháp và phương pháp tác động tâm lý.

..

Xem thêm các nội dung trong Chương II:

..

Các phương pháp tác động tâm lý

Mục lục:

1. Khái niệm chung

2. Hệ thống phương pháp tác động tâm lý

Phương pháp tác động tâm lý là cách thức sử dụng các phương tiện giao tiếp tác động đến người khác nhằm hình thành hoặc thay đổi tâm lý của họ, phù hợp với mục đích giải quyết vụ án và cải tạo người phạm tội, trong khuôn khổ pháp luật quy định. Phương tiện giao tiếp

Mục đích sử dụng phương pháp tác động tâm lý:

– Nhằm hình thành trạng thái tâm lý cần thiết hoặc làm thay đổi nhận thức của người được tác động

– Nhằm giáo dục, cảm hóa người phạm tội

– Nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động tư pháp, bảo vệ quyền con người, hạn chế vi phạm pháp luật dẫn đến làm tổn thương con người trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Phương tiện tác động

– Sử dụng ngôn ngữ

– Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ

– Sử dụng hình ảnh (ảnh, camera…) để truyền thông tin, giáo dục, ám thị…

b) Các yêu cầu khi sử dụng phương pháp tác động tâm lý

– Tìm hiểu rõ nhân thân và các đặc điểm tâm lý của đối tượng trước khi tác động

– Phải có kế hoạch tác động cụ thể với các mục đích cụ thể

– Tác động tâm lý nhằm đạt được mục đích tố tụng, nhưng đồng thời góp phần hình thành ở họ tâm lý tích cực.

– Tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền con người của người chịu tác động.

Chủ thể sử dụng: Chủ thể sử dụng phương pháp thông thường là những người tiến hành tố tụng, người bào chữa, cán bộ quản giáo.

Đối tượng chịu tác động: người tham gia tố tụng

2. Hệ thống phương pháp tác động tâm lý

a) Phương pháp truyền đạt thông tin

Phương pháp truyền đạt thông tin là phương pháp mà người sử dụng nó cung cấp cho người tiếp nhận thông tin những thông tin cần thiết, làm cho người đó nhận thức được sự việc, đồng thời hình thành ở họ tâm lý tích cực phù hợp với mục đích của hoạt động giải quyết vụ án hình sự và cải tạo người phạm tội.

Các trường hợp cần áp dụng phương pháp này:

– Làm tăng hiểu biết, kiến thức cho ngườii tếp nhận thông tin để họ hình thành hoặc thay đổi tâm lý theo hướng hợp tác với cơ quan tư pháp hoặc tự giác cải tạo.

– Khi bị can, bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác vì các lí do nhất định mà có thái độ quanh co, mai khai, giấu giếm sự thật và có ý thăm dò cán bộ điều tra, xét hỏi: v/d: truyền đạt thông tin cho bị can rằng: anh không cần phải giấu nữa, vì tôi đã thu thập được lời khai từ bạn bè, đồng chí của anh rồi…

– Cần thay đổi hướng tư duy của người bị tác động: đang nói về nội dung này, chuyến sang nội dung khác nữa. làm thế nào để họ cung cấp cho ta thông tin có thật. Thay đổi bằng cách truyền thông tin (v/d: đang nói về gia đình, thì chuyển sang chuyện công việc…)

– Nhằm khôi phục trí nhớ của người tiếp nhận thông tin (thường là bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng) hoặc có sự nhầm lẫn về các tình tiết cần phân biệt.

– Nhằm theo dõi người bị tình nghi: v/d: cung cấp một vài thông tin trên báo chí có ý đồ, để xem đối tượng bị tình nghi có thay đổi gì về hành vi hay không. v/d: sáng mai, đối tượng tình nghi có còn đi làm không, hay lại đặt vé  máy bay đi nơi khác…

Chủ thể truyền đạt thông tin: là những người tiến hành tố tụng, cán bộ quản giáo, người bào chữa…

Nội dung thông tin cần truyền đạt

– Tình tiết, chứng cứ liên quan đến vụ án: cân nhắc nên cung cấp gì, ko cung cấp gì

– Thông tin về pháp luật, chính sách

– Quyền và nghĩa vụ pháp ý của đối tượng chịu tác động

Yêu cầu thông tin

– Rõ ràng, cụ thể

– Tính mới: chưa biết thì hiệu quả tác động mới lớn

– Tính chân thực: ko sử dụng thông tin giả để hù dọa đối tượng, ko gây hoang mang, dao động tâm lý.

– Tốc độ đưa ra thông tin phải phù hợp với trình độ nhận thức, sức khỏe để theo dõi

Phương tiện truyền đạt: ngôn ngữ, phi ngôn ngữ…

b) Phương pháp thuyết phục

Phương pháp thuyết phục là phương pháp sử dụng lý lẽ, kiến thức, tình cảm để thuyết phục người chịu tác động để thay đổi nhận thức, thái độ, xúc cảm sao cho đúng đắn hơn, tích cực hơn, phù hợp với mục đích của hoạt động giải quyết vụ án hình sự và cải tạo người phạm tội. Thuyết phục

  • Thuyết phục logic
  • Thuyết phục tình cảm

Nội dung thông tin thuyết phục

– Pháp luật, chính sách của Đảng, nhà nước liên quan đến vấn đề cần thuyết phục

– Thông tin, chứng cứ về vụ án

– Tỉnh cảm, đạo đức, lòng tự trọng.

Các trường hợp cóe tể áp dụng phương pháp này:

– Khi người bị thuyết phục có những nhận thức hạn chế, sai lệch về vấn đề có liên quan vụ án (ví dụ, cho rằng mình không sai khi phạm tội, bị oan) hoặc khó cải tạo, giáo dục khi thi hành án.

– Người bị thuyết phục có thái độ thiếu thành khẩn, bất hợp tác khi khai báo, đổ lỗi cho người khác, nhận hết lỗi về phía mình…

Điều kiện sử dụng phương pháp

– Người thuyết phục phải có khả năng về nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác, uy tín, tự tin

– Thông tin thuyết phục phải thực tế và phù hợp với nhận thức của người chịu tác động

–  Phải có tình cảm, niềm tin và lòng kiên trì khi thuyết phục

– Tác phong của người thuyết phục phải đúng đắn, nghiêm túc, đáng tin

Lưu ý: Truyền đạt thông tin và thuyết phục đều là những phương pháp tác động tâm lý một chiều, chủ thể luôn giữ vai trò chủ động, tích cực. Đối tượng tiếp nhận một cách thụ động và không có sự tương tác, phản hồi ngay lập tức từ phía đối tượng chịu tác động.

c) Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy

Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy là phương pháp mà người tác động đặt ra nhiều câu hỏi khác nhau để khi tư duy trả lời, người được hỏi thấy được logic của sự việc đang đặt ra cho mình, từ đó phải thay đổi tâm lý và hợp tác tốt hơn với cán bộ tư pháp. Đây là phương pháp đặc trưng của tố tụng thẩm vấn. Hỏi để kiểm tra, xét hỏi. Bằng phương pháp hỏi để làm rõ sự thật khách quan.

Các trường hợp sử dụng phương pháp này

– Khi người cung cấp lời khai quên một số tình tiết của vụ án

– Khi cần làm thay đổi thái độ, quan điểm, lập trường sai lệch của người được hỏi

– Khi đối tượng khai báo không đúng sự thật, thiếu thành khẩn.

Các loại câu hỏi thường được sử dụng

– Câu hỏi liên tưởng đến mô hình thật của sự việc: Nhìn thấy gì, ai, như thế nào…. Buộc đối tượng cung cấp những thông tin mà họ đã được chứng kiến. Có thể kiểm chứng thông tin cung cấp.

– Câu hỏi bất ngờ, khác với sự chuẩn bị trước của người được hỏi:

– Câu hỏi chi tiết, truy vào các nội dung chưa rõ ràng hoặc cho là có gian dối, làm cho người được hỏi lúng túng: không thể bằng lòng với những lời khai qua loa, đại khái của đối tượng được. phải đi đến cùng. v/d: vết thương trên tay của anh do đâu, bị can khai là do ngăn kéo bàn gây ra, nhưng khi thực nghiệm thì không phải => hỏi đến cùng làm cho bị can bối rối, khai sự thật.

– Câu hỏi ban đầu hướng đến câu trả lời làm tiền đề để hỏi câu hỏi sau quan trọng: v/d: mức sống ra sao. Những câu hỏi sau: với mức sống như thế, tiền đâu anh trả nợ…

Các yêu cầu cần chú ý khi sử dụng phương pháp này:

– Phải đoán trước được ý đồ (mô hình tư duy) của người được hỏi

– Chuẩn bị trước các loại câu hỏi nếu có thể (dự án luôn câu trả lời: vd: nếu bị can trả lời như thế này, thì hỏi tiếp như thế nào..)

– Câu hỏi phải dễ hiểu, diễn đạt ngắn gọn.

Đây là phương pháp tác động tâm lý được thực hiện thông qua phương tiện ngôn ngữ nói, trực tiếp, linh hoạt. Phương pháp này tạo được sự tương tác tích cực giữa chủ thể và đối tượng giao tiếp.

d) Phương pháp giao tiếp tâm lý có điều khiển

Phương pháp giao tiếp tâm lý có điều khiển là sử dụng hoặc thiết lập các quan hệ giao tiếp, định hướng và điều khiển các giao tiếp này diễn ra theo hướng nhằm đạt được mục đích của người điều khiển. Giao tiếp đa chiều (có ít nhất 3 người trở lên tham gia giao tiếp). v.d: cho anh A gặp anh B dưới sự kiểm soát của người tiến hành tố tụng, gặp nhau để làm rõ vấn đề, ai nói không đúng, ai đưa ra lời khai man…

[dân gian gọi là “3 mặt một lời”].

Trường hợp áp dụng

– Khi có nhiều người cần tham gia giao tiếp: V/d: tại phiên tòa công khai, lựa chọn đối tượng giao tiếp: hỏi ai trước, hỏi ai sau, khi hỏi có cần cách ly họ không?

– Có mâu thuẫn giữa các chứng cứ, lời khai: v.d: tổ chức đối thoại, giao tiếp để loại bỏ mâu thuẫn

– Cần xác định lại thái độ tâm lý của đối tượng thông qua hoàn cảnh giao tiếp cụ thể: v.d: cho đối tượng này gặp gỡ đối tượng khác, để kiểm tra xem họ có quen biết nhau không.

– Khi cần giáo dục đối tượng trong hoạt động cải tạo: v.d: cho phạm nhân gặp gỡ gia đình, thân nhân.

Yêu cầu khi sử dụng phương pháp

– Người tiếu hành tố tụng phải dự liệu trước các mâu thuẫn, hoàn cảnh: v/d: loại trừ khả năng bị ảnh hưởng tâm lý lẫn nhau, như các trường hợp “cấp dưới lo sợ cấp trên”, “con lo sợ bố”…, loại trừ khả năng đe dọa, mua chuộc, làm cho đối tượng thay đổi lời khai. Nếu không, buổi giao tiếp đó sẽ không đạt được mục đích. – Người tiến hành tố tụng phải làm chủ, kiểm soát hoạt động này: không để đối tượng lợi dụng giao tiếp để trao đổi, thông cung với nhau. Đặc biệt trong giai đoạn điều tra.

e) Phương pháp ám thị gián tiếp

Phương pháp ám thị gián tiếp là phương pháp tác động tâm lý bằng cách ám thị thông qua việc cung cấp những thông tin tuy không có quan hệ trực tiếp với sự kiện phạm tội nhưng làm cho bị can, bị cáo có xu thế đi đến kết luận là người tác động đã hiểu rõ toàn bộ sự kiện phạm tội xảy ra, không thể che giấu bí mật được nữa, tốt nhất là phải khai báo sự thật.

[Rung cây nhát khỉ]

Trường hợp sử dụng

– Chưa có chứng cứ chắc chắn để buộc tội đối tượng: áp dụng đối với người bị buộc tội, bị can, bị cáo. Chứ ko dùng biện pháp ám thị với người làm chứng, người bị hại.

– Có thông tin khác liên quan đến bí mật đời tư của đối tượng

Yêu cầu sử dụng

– Đối tượng thiếu thông tin: đối tượng bị tạm giữ hình sự, bị can bị tạm giam. Họ chưa biết cơ quan điều tra đã biết những thông tin gì rồi. Còn đ/v bị cáo thì họ ko còn thiếu thông tin nữa, họ đã được tống đạt cáo trạng.

– Sử dụng phương pháp này ở thời điểm đầu buổi xét hỏi:

– Thông tin phải chính xác mặc dù không liên quan đến nội dung vụ án

– Thông tin phải đánh vào yếu điểm tâm lý của đối tượng: “yếu điểm” là điểm quan trọng. v/d: chưa có thông tin về đối tượng nhận tham ô tài sản, nhưng có thông tin anh có nhiều tài sản bất minh, nhiều bồ nhí, nhân tình…, hoặc việc man khai lý lịch, bằng cấp giả để được lên lương, lên chức…

f) Phương pháp ám thị trực tiếp

Phương pháp ám thị trực tiếp là phương pháp cung cấp thông tin, hình ảnh, việc làm của cán bộ hoặc những người có gương tốt để tác động đến người khác, làm cho đối tượng thay đổi suy nghĩ, xử sự phù hợp với mục đích của hoạt động tư pháp.

Yêu cầu sử dụng

– Chủ thể và đối tượng có sự hiểu biết lẫn nhau

– Chủ thể và đối tượng có thời gian tiếp xúc tâm lý ổn định, liên tục

Phương pháp này sử dụng phổ biến trong hoạt động cải tạo, là phương pháp đặc thù trong hoạt động cải tạo phạm nhân.

g) Phương pháp mệnh lệnh

Phương pháp mệnh lệnh là phương pháp cưỡng chế tâm lý nhằm áp đặt ý chí của người tác động tới người khác, đòi hỏi người đó phải tuân theo ý chí của người tác động.

Yêu cầu sử dụng

– Chủ thể thiết lập, điều khiển, quản lí hoạt động tư pháp

– Sử dụng chủ yếu trong hoạt động cải tạo phạm nhân

Lưu ý: 4 phương pháp đầu là phương pháp sử dụng phổ biến, 3 phương pháp sau là 3 phương pháp đặc thù.

Xem thêm các nội dung trong Chương I:

Xem thêm các nội dung trong Chương III:

Phương pháp tác động tâm lý là gì?

Phương pháp tác động tâm lý là cách thức sử dụng các phương tiện giao tiếp tác động đến người khác nhằm hình thành hoặc thay đổi tâm lý của họ, phù hợp với mục đích giải quyết vụ án và cải tạo người phạm tội, trong khuôn khổ pháp luật quy định.

Các phương pháp tác động tâm lý bao gồm?

Hệ thống phương pháp tác động tâm lý bao gồm:– Phương pháp truyền đạt thông tin– Phương pháp thuyết phục– Phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy– Phương pháp giao tiếp tâm lý có điều khiển– Phương pháp ám thị gián tiếp– Phương pháp ám thị trực tiếp

– Phương pháp mệnh lệnh

Video liên quan

Chủ đề