Ontological la gi

Dưới đây là những mẫu câu có chứa từ "ontological", trong bộ từ điển Từ điển Y Khoa Anh - Việt. Chúng ta có thể tham khảo những mẫu câu này để đặt câu trong tình huống cần đặt câu với từ ontological, hoặc tham khảo ngữ cảnh sử dụng từ ontological trong bộ từ điển Từ điển Y Khoa Anh - Việt

1. I was full of ontological uncertainty and existential angst.

Tôi không thấy chắc chắn về bản thể luận và rất nghi ngại về thuyết hiện sinh.

2. The ontological argument states that God exists because he is perfect.

Suy ra, Thượng đế phải có sự hiện hữu vì Ngài là một sự hoàn hảo.

3. Azuma has published seven books, including Sonzaironteki, Yubinteki (Ontological, Postal) in 1998, which focuses on Jacques Derrida's oscillation between literature and philosophy.

Azuma đã xuất bản bảy cuốn sách, trong đó có Sonzaironteki, Yubinteki vào năm 1998, tập trung vào dao động giữa văn học và triết học của Jacques Derrida.

4. These emergent properties have an independent ontological status and cannot be reduced to, or explained in terms of, the physical substrate from which they emerge.

Những đặc tính đột sinh này có một trạng thái bản thể độc lập và không thể quy giản về, hay giải thích theo, nền tảng vật chất mà từ đó nó xuất hiện.

5. The 20th-century German philosopher Martin Heidegger criticized the ontological assumptions underpinning such a reductive model, and claimed that it was impossible to make sense of experience in these terms.

Triết gia Đức ở thế kỉ 20 Martin Heidegger phê phán những giả thiết bản thể làm nền tảng cho một mô hình quy giản như vậy, và tuyên bố rằng không thể hiểu được kinh nghiệm theo những lối này.

Gửi các bạn sinh viên cao học của tôi

Mấy từ tôi mới viết ra là những từ mà một sinh viên cao học nào (well, ít ra trong lãnh vực social sciences and humanities) cũng sẽ gặp khi đọc tài liệu bằng tiếng Anh về phương pháp nghiên cứu khoa học. Nó cũng là những từ mà GS Fran Hoffmann đưa vào list vocabulary mà bà ấy dạy cho lớp Nghiên cứu khoa học mà tôi đang tổ chức tại ĐHQG.

Và chắc chắn là những từ này rất là threatening đối với sinh viên! Nên để cho nó student-friendly (!), trước hết là phải dịch nó ra tiếng Việt. Vây thì đây, dịch theo những cái tôi đã biết (cũng chẳng rõ học từ đâu, vì đa số là tự học mà!):

Ontology = bản thể luận;
Epistemology = nhận thức luận (có nơi gọi là khoa học luận)
Methodology = phương pháp luận
Phenomenology = hiện tượng học
Research paradigm = mô thức nghiên cứu

Nhưng tất nhiên dịch xong thì ... vẫn như không, vì vẫn chưa hiểu những bản thể luận, nhận thức luận, hiện tượng học, mô thức nghiên cứu ấy nó là cái gì. Vậy thì xin đọc bằng tiếng Anh tại đây.

Link: http://www.ul.edu.lb/fthm/papers/3rd%20Axis/Methodology%20greece.doc

Nếu vẫn không hiểu, có thể đọc bằng tiếng Việt, đã được viết cho người bình dân (!), ở đây. Link: http://bshohai.blogspot.com/2009/12/noi-chuyen-triet-hoc-cua-nguoi-ngoai-ao_12.html

Còn dưới đây thì xin cung cấp thêm một vài phần trích dịch từ bài viết bằng tiếng Anh mà tôi cho là đã rất rõ ràng dễ hiểu lắm rồi, nếu không hiểu có lẽ là do nhai chưa kỹ, cố gắng nhai rồi sẽ thấy nó ngon các bạn ạ!

Đây:
Abstract
There is a great number of issues related to the philosophical design and methodological approach that the researcher has to take into consideration beginning a research [...]. The nature of reality and the nature of knowledge have significant impacts in the research design. Such philosophical issues need to be addressed explicitly since they shape the choice of research instruments.

Tóm tắt
Có khá nhiều vấn đề liên quan đến khía cạnh triết lý của thiết kế và cách tiếp cận về phương pháp luận mà một nhà nghiên cứu cần phải quan tâm trước khi bắt đầu một đề tài nghiên cứu [...]. Bản chất của hiện thực và bản chất của tri thức có ảnh hưởng lớn đến thiết kế nghiên cứu. Những vấn đề triết học như vậy cần được đề cập đến một cách tường minh vì chúng sẽ quyết định việc lựa chọn công cụ nghiên cứu.

(đọc xong, chẳng hiểu gì hết phải không các bạn?)

Vậy thì tiếp nữa:
According to Denzin and Lincoln (1994), paradigm is the basic set of beliefs that guide action that can be viewed as consisting of three main elements: ontology, epistemology and methodology.

Theo Denzin và Lincoln (1994), mô thức là một bộ các niềm tin hướng dẫn hành động mà ta có thể xem là bao gồm 3 yếu tố: bản thể luận, nhận thức luận, và phương pháp luận.

Epistemology refers to the question of how we know the world. It looks at the relationship between the inquirer and what can be known by direct observation at the external world to uncover knowledge or when the observer and the subject of inquiry must interact to create knowledge.

Nhận thức luận nói về việc chúng ta hiểu biết thế giới này bằng cách nào. Nó nhìn vào mối liên hệ giữa người nghiên cứu và cái mà người đó có thể biết được thông qua quan sát trực tiếp thế giới bên ngoài để khám phá ra tri thức, hay khi người quan sát phải tương tác với khách thể nghiên cứu để tạo ra tri thức.

(Phần trên là dịch chữ, word-for-word translation, khó hiểu quá phải không. Xin dịch lại ra ngôn ngữ bình dân cho dễ hiểu:

Nhận thức luận là một quan điểm giúp ta trả lời câu hỏi "làm sao mình biết được điều đó?". Có phải chỉ cần quan sát rồi sẽ biết, hay là phải tương tác với nó rồi mới biết?

Chẳng hạn, để trả lời câu hỏi "anh ấy có yêu mình không?", có cô gái sẽ tin rằng "cứ chờ xem đến ngày sinh nhật của mình anh ấy có tặng hoa không, đi chơi chung anh ấy có trả tiền không, anh ấy có chiều mình không" là biết ngay. Còn có cô thì tin rằng những cái ấy chỉ là làm màu mà thôi, chưa thể biết được, phải "sống lâu mới biết đêm dài"! Đại khái thế.)

Tạm thời thế. Sẽ viết tiếp cho các bạn sau nhé, bây giờ bắt đọc nữa chắc là hết "dzô" rồi!
--

Viết tiếp một chút:

Về từ paradigm, nếu dịch là "mô thức" thì có lẽ chưa tốt lắm (các bạn xem comment của BS Hồ Hải bên dưới), nên có lẽ sẽ nghĩ lại. Một từ khác đã được dùng để dịch paradigm là hệ thuyết; từ này có vẻ rõ nghĩa hơn (hệ thuyết = hệ thống lý thuyết), nhưng "hệ thuyết nghiên cứu" nghe "hàn lâm, kinh viện", tối tăm quá. Tôi đang nghĩ đến từ "trường phái nghiên cứu", không biết dùng ở đây có phù hợp không (trong tiếng Anh, "trường phái" được dịch là "school").

Sẽ nghĩ thêm. Chân lý là một cuộc hành trình bất tận. Nên cô PA viết sách mãi có bao giờ xong đâu ;-). Công trình nào cũng thành Cầu Giần Xây hết (tức là xây dần dần ấy các bạn ạ - cái này là ông xã tôi nói đấy!)